Lên đường đi Rạch
Giá vào một đêm mưa gió đầu tuần của tháng mười, chúng tôi hẹn nhau tập trung tại
nhà Kim Nga, nhóm trưởng Hiểu & Thương. Những ngày này Sài Gòn mưa rất nhiều,
đến hôm nay vẫn còn mưa và cơn mưa rất lớn. Vậy mà tất cả mọi người đã đăng ký chuyến
đi đều có mặt đầy đủ, khi tôi đến nơi đã thấy một số bạn đang chuẩn bị sắp xếp
hàng hóa cho chuyến từ thiện. Cơn mưa như trút nước suốt 2 tiếng đồng hồ mãi đến
hơn 22:30 mới nhẹ hạt dần. Những người cuối cùng xuất hiện, Tiến Danh với bộ đồ
ướt sũng, một cô bạn khác đang tất tả chạy xe đạp từ Thủ Đức cũng vừa đến. 11
giờ khuya, xe khởi hành đi Kiên Giang. Lần này đoàn sẽ đi hai xe, cùng đến huyện
Giang Thành, tỉnh Kiên Giang phát lu trước rồi một đoàn quay về, riêng đoàn dẫn
đầu bởi sư cô An Nghĩa sẽ đi tiếp khánh thành cầu ở Rạch Giá.
7:00 giờ sáng,
xe đến Kiên Lương. Suốt đêm đi qua nhiều tỉnh, trời vẫn còn mưa lâm râm, may
sao khi đến nơi thì mưa đã tạnh hẳn. Trên những con đường còn ẩm nước, một ngày
mới bắt đầu ở Kiên Giang. Anh Bảo, nhóm từ thiện Rạch Giá đón chúng tôi và đưa
đi ăn sáng, uống cà phê ở một quán khá đẹp đối diện nhà thờ giáo xứ Kiên Lương.
Không khí sau cơn mưa vừa mát mẻ trong lành, cộng thêm sự yên tĩnh của phố tỉnh
vùng xa khác hẳn một Sài Gòn ồn ào đem lại cho chúng tôi cảm giác thật dễ chịu
khó tả.
9:00 xe đưa
chúng tôi đi vào xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành. Càng vào sâu, con đường càng
vắng vẻ, hẹp dần và khó đi. Nhiều đoạn đang làm dở dang trong các công trình cầu
đường, thêm cơn mưa những ngày qua làm con đường thêm lầy lội. Tài xế phải vững
tay lái lắm mới đưa được chiếc xe 16 chỗ lách qua những cây cầu cao lêu nghêu
mà rất hẹp bề ngang rồi ngoắt vào những khúc cua “nín thở”. Những lúc như thế
này chỉ đành phó thác sinh mạng cho bác tài, vậy mà các bạn vẫn còn rú lên suýt
xoa khi xe chạy ngang qua những bãi cỏ bên đường nở đầy hoa mười giờ màu cánh
sen rực rỡ hay khi lao qua những cánh đồng mênh mông có hàng cây tràm nở rực
bông vàng trên các bờ đê soi bóng nước, những bụi hoa mua màu tím nên thơ và
cây mắt mèo nối tiếp trùng trùng trên quãng đường dài.
Đã đến nơi tập
trung lu. Lần này đoàn từ thiện nhóm Hiểu & Thương đóng góp 200 cái lu. Mỗi
chiếc lu có chiều cao chừng 1.10 mét, dung tích 1 mét khối (= 1.000 lít nước). Nặng từ 300 – 310
ký. Giá xuất xưởng là 850 ngàn đồng/cái. Vận chuyển khá khó khăn vì lu nặng nề,
bên sản xuất đồng ý vào tận nơi, sản xuất tại chỗ. Nhờ vậy mà chúng tôi được
nhìn thấy tận mắt người thợ đã làm cái lu như thế nào.
Thông thường những
cái lu đất nung chúng ta thường thấy, có qui cách và dung tích nhỏ hơn gọi là
“kiệu”. Ở các tỉnh miền Tây thường sử dụng lu đất nung để chứa nước mưa, lâu
ngày dễ vỡ, còn ở đây lần đầu tiên tôi nhìn thấy chúng được làm bằng xi măng cốt
thép, tựa như cách làm các bể nước hình tròn. Trong những giải pháp giúp các
vùng khô hạn thì lu xi măng cốt thép là hợp lý nhất vì giữ được lâu bền tương
đương bể nước, lại có thể phân bổ dễ dàng hơn đến riêng từng nhà dân để họ chứa
nước sinh hoạt.
Bạn có thể thắc
mắc tại sao ở đây người dân cần cái lu đến thế! Ở những vùng miền núi, hay biển
đảo, sông nước xa xôi, địa hình trắc trở không có giếng nước ngọt để dùng, thì khát
nước mưa là chuyện thường ngày. Ở đồng bằng sông Cửu Long, kênh rạch chằng chịt
nhưng nước sạch nhiều nơi xa xôi không có. Hẳn bạn cũng từng nhìn thấy những
chiếc cầu “tỏm” nằm bên bờ ao, hay buồng tắm che phên sơ sài. Cũng dòng nước ấy,
tắm giặt, vệ sinh, ăn uống… Nhiều nơi người dân chẳng đặng đừng cũng phải dùng
nước kênh rạch mà lóng phèn, khá hơn thì mua nước ngọt có ghe chở từ trên núi về
mà dùng thì quá tốn kém, không phải ai cũng có thể làm được. Tôi nhớ lại những
năm 80 ở Phú Quốc, tôi từng ao ước có cái lu thật to để chứa nước mưa khi cả
xóm chỉ có chung một cái giếng để dùng, tắm rửa hay giặt giũ. Có lúc đông người
chen nhau hay nước giếng cạn, vẫn phải thả cái gàu xuống gần đáy giếng múc nước
đục ngầu lên mà dùng. Có người chèo thuyền
lên núi nơi có giếng Tiên chở nước về phố bán, mỗi ngày tôi chỉ dám mua 1, 2
can nhỏ nước sạch để nấu cơm hay đun sôi lấy nước uống…
Đó là chuyện năm
xưa, ngày nay nhiều nơi xa xôi đã có nước máy, nhưng không phải nơi nào cũng có
như ở xã Vĩnh Điều này. Dọc theo con đường vào xã, bên trái là dòng kênh, nhiều
túp nhà tranh lụp xụp tơi tả, riêng tôi thì hay để ý đến những cái “cầu tỏm” …
vì cũng như các bạn ở thành phố, chúng tôi rất sợ loại cầu này. Và cứ nghĩ làm
thế nào người ta có thể sống mà không có nước sạch.
Vào tháng mười
là lúc lượng mưa nhiều nhất trong năm, thì cái lu là vật chứa nước để dành nước
sử dụng cần thiết nhất đối với người dân nơi đây. Vì vậy, khi được hỏi cần gì
nhất thì đa số đều trả lời: “Cái lu”!
Anh Bảo cho biết
ở Giang Thành, có khoảng 10 ngàn hộ dân nghèo. Cho đến nay, các nhóm từ thiện,
mạnh thường quân đã giúp được 4.000 chiếc xuồng gỗ cho người dân.
Sư cô An Nghĩa là
người đi nhiều tỉnh miền Tây xây cầu, làm giếng, phát lu v.v suốt 10 năm nay. Riêng
ở Kiên Giang thì lần đầu nhóm cứu trợ được 500 cái lu
và 300 xuồng gỗ cho xã Nam Thái Sơn và Mỹ Hiệp Sơn Huyện Hòn Đất. Kế đến là 100
cái lu và 100 xuồng gỗ cho xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành. Ngoài ra nhóm từ
thiện của sư cô còn tặng 5 chiếc thuyền cấp cứu bằng composite có gắn động cơ cho
huyện Giang Thành dùng vào việc cứu thương, cứu hộ. Và hôm nay sư cô tiếp tục tặng
thêm 200 lu dung tích 1 mét khối. Vì
lần này số lu lên đến hơn 100 nên nhà sản xuất đề nghị sẽ mang nhân công và vật
liệu đến làm tại chỗ. Nhờ tiết kiệm chi phí vận chuyển, cứ mỗi trăm cái lu họ tặng
thêm 5 cái.
Vận chuyển lu đến nhà người dân |
Lên chẹt đi phát lu |
Cổng trường mầm non ở Xã Vĩnh Điều, Huyện Giang Thành, Kiên Giang. |
Một góc sân trường mầm non ở xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành, KG |
Cầu tre chênh vênh bắc qua dòng kênh ở xã Vĩnh Điều, Giang Thành, KG |
Chiếc xuồng gỗ cũ nằm trên bờ sông |
Con đường vào xã Vĩnh Điều, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét