Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019

DONOR

DONOR - NGƯỜI HIẾN TẶNG
(Chuyện có thật).
Share từ FB của Bs Hoang Truong, đang sống và làm việc tại châu Âu.

Chuyện xảy ra gần 20 năm trước, khi tôi còn làm y tá của một bệnh viện trong một thành phố nhỏ ở tiểu bang Arizona.
Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc.
Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau bữa tiệc.
Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn.
Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện.
Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?
Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em gốc Việt, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.
Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.
Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.
Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối:
“Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”
“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.
Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.
Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.
Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết.
Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…
Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do.
Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi. Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng. Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng.
Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.
Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt.
Tôi đảo mắt nhìn quanh. Không có ai cả!
Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên.
Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi. Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường.
Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.
Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ:
"Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”
Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt:
"Em đi kiếm đồ!”
Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.
“Em bị mất cái gì à?”
“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị…”
Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.
Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra.
Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.
Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế.
Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên:
"Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”
“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”
Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương. Tôi uống thêm hai viên Tylenol.
Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy.
Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?
Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây?
Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết. Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng. Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.
Người mẹ buồn rầu nói:
"Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”
“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?"
tôi hỏi:
“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà.
Hai đứa đều học giỏi và có tương lai.
Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.”
Bà sụt sịt khóc. Tôi ngập ngừng:
“Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”
“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”
“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.
Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài:
"Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm.
Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”
Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi:
“Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”
“Dạ được. Ông cần gì không?”
“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost.


Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe.
Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”
Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự.
Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói? Không lẽ mình vừa gặp ma sao?
Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát:
"Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”
Ông ngần ngừ một chút rồi nói:
“Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”
Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì. Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?
Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi.
Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy:
"Trong ví này có một vật rất quan trọng…”
“Cô nói gì?”
Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái.
Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé:
"Chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…”
Tấm bằng lái!
Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa.
Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây.
Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét.
Tim tôi đập thình thịch.
Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu.
Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR.
Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?
Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV.
Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.
Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ.
Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ.
5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở. Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra.
Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi:
"Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”
Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này.
Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.
Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé.
Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người.
Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.

****
Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều.
Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.”
Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.
Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi.
Thế thì tiếc làm chi cái xác thân tạm bợ này!
Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi...
(Diễm Vy)

NƠI MAI ANH ĐÀO NỞ

Sau hai ngày trời lặn lội đi tìm mai anh đào, dường như vẫn chưa thỏa thích dù đã vào nhiều làng hoa, vườn dâu, vườn cà, gặp cả tam giác mạch bay về từ Đông Bắc, lavender của châu Âu, những vườn cúc họa mi, cẩm tú cầu bất tận..., ngày thứ ba sau khi check-out ra khỏi khách sạn từ sáng sớm, chúng tôi mang theo hành lý tiếp tục đi tìm những thứ mà mình muốn tìm.
Đã đến Đà Lạt rất nhiều lần từ thời tuổi trẻ đến tận bây giờ, tôi gần như chứng kiến những đổi thay của thành phố này. Những năm 70, lúc ấy Đà Lạt còn thơ mộng lắm với bạt ngàn rừng cây nhiều gỗ quý, thông xanh dọc theo các cung đường đèo Blao, đèo Prenn, đèo Ngoạn Mục, với những ngọn thác hùng vĩ Pongour, Datanla, Liên Khương, Prenn, Cam Ly, thác Voi ... Thần tiên lắm với những ngôi biệt thự xây theo kiến trúc Pháp, sơn màu trắng, nằm thấp thoáng trên đồi cao nhìn xuống thung lũng, nhà nào cũng có vườn trồng thông, đào, mimosa, và những khu vườn cúc marguerite trắng, violet tím, những bụi hồng tường vi leo quanh hàng rào...


Ngày ấy nhà một người dì của tôi ở đường Hồ Tùng Mậu, một số họ hàng khác ở Trại Hầm, Trại Mát. Đà Lạt còn vắng vẻ lắm, nhưng rất đẹp và thơ. Nhớ mãi phía sau nhà dì có trồng một giàn su su, buổi sáng sớm dì khoác áo ấm ra chợ mua bánh mì baguette về cho chị em tôi ăn với paté hay trứng gà ta chiên oeuf-plat. Đến Trại Hầm thì dì B dẫn ra sau vườn nhìn xuống thung lũng trồng mận và trái hồng, hái rau vào cho dì đổ bánh xèo. Các chị họ cũng thường đưa chị em tôi đi chơi đồi Cù, hồ Xuân Hương, hồ Tuyền Lâm, Thung lũng Tình yêu, hồ Than Thở v.v... lúc đó những nơi này là hồ xanh màu rêu của lá, cỏ mượt và thông xanh reo vi vu trong gió. Tôi thường đi thơ thẩn nhặt những quả thông rơi trên cỏ, một trong những hình ảnh gắn liền với sản phẩm thủ công mỹ nghệ gỗ thông của Đà Lạt là những ngôi nhà sàn gỗ nho nhỏ, có quả thông khô làm bụi cây, hay những con thú gỗ nhỏ xinh xinh... 


Những năm sau 80, đi du lịch Đà Lạt, tôi cũng đến những điểm tham quan năm xưa, từ Linh sơn tự, Trúc Lâm thiền viện, nhà thờ Con gà, nhà ga Đà lạt, trường Lycée Yersin, nữ tu viện Couvent des Oiseaux ... đến các khu phố, tiệm ăn quen thuộc ngày nào. Nhìn chung Đà Lạt có nhiều cố gắng để chuyển mình trở thành một nơi đến thu hút nhờ khí hậu mát mẻ, dễ chịu cộng thêm hoa lá tươi thắm khắp nơi. Một điều dễ nhận thấy là những ngọn đồi, rừng thông thưa thớt hẳn, quang cảnh khô khan hơn, hồ xuất hiện các loại pedalo (thuyền đạp vịt) ... nhiều hơn trước, trang trí xanh đỏ tím vàng quá nhiều che mất đi cái đẹp nguyên sơ thơ mộng của thiên nhiên. Nhiều con đường đã thay đổi, có con đường lúc trước chỉ trồng mimosa đến mùa hoa nở vàng rực rỡ rất đẹp thì nay không thấy nữa, có lúc thay bằng hoa ban trắng, rồi hoa đào rừng, tôi nghĩ có lẽ vì mimosa không có giá trị kinh tế bằng. Lúc đó tôi thích đến Thung lũng Vàng, Lang Biang hơn là đến hồ Than Thở hay Thung lũng Tình yêu không còn đẹp như một thời từng nổi tiếng. Tôi cũng đã đến một vài làng người K'Ho, thưởng thức nhạc cồng chiêng giữa hương đêm rừng cao nguyên. Dần dần nhà sàn của họ cũng thay đổi không còn bằng gỗ mà đã thay vào bê tông, mái tôn, cổng và hàng rào có khi khá cầu kỳ. Tuy vậy, Đà Lạt vẫn còn những cái thú dễ thương dành cho khách phương xa như che dù đi trong mưa bụi dạo phố Hòa Bình, về đêm trùm áo len sùm sụp ghé hàng rong bên đường uống sữa đậu nành nóng, ăn bắp, khoai lang nướng ... cho ấm bụng, hoặc đi uống cà phê, có những quán trong trung tâm thành phố vừa nhâm nhi tách cà phê vừa nhìn xuống chợ Đà Lạt và con phố trên dốc cao, hay đi xa hơn thì có các quán chè, quán nước nhìn ra những ngọn thác đẹp. Nếu bạn thích một không khí lãng mạn về đêm thì Đà Lạt có một quán cafe nhạc đặc biệt ở đường Khe Sanh mang tên "Diễm xưa", ở đó ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh. Quán nằm trong mé cổng một công viên lớn hơi tối và con đường đi vào khá âm u, cây cối ẩm ướt, bên trong chỉ thắp đèn dầu ... Mang hơi hướng một chút ma mị, nhưng dù sao thì đó cũng là một trong những "đặc sản" tinh thần của Đà Lạt.


Mới vài năm trước đây, khi Đà Lạt đã xuất hiện nhiều làng hoa với công nghệ trồng trọt hiện đại, đến Đà Lạt còn cái thú đi thăm các làng hoa, vườn dâu, thì sau này có thêm những điểm mới dành cho khách tham quan du lịch được quảng cáo ầm ỹ để thu hút khách du lịch tuy thật sự lắm nơi ghé đến tôi thật thất vọng, ở những nơi này tiểu cảnh và cảnh giả khá nhiều, có phần vụng về, có lẽ chỉ để du khách chụp hình cho vui chứ không gây được cảm xúc cho người muốn ngắm thiên nhiên thật sự hoặc phối hợp với những kiến trúc, sắp đặt mang tính mỹ thuật. Hình như những cô cậu tuổi teen rất thích "sống ảo" ở những hình ảnh quả tim vàng, "cổng trời" ... Giữa cánh đồng dưới thung lũng cẩm tú cầu đang nở hoa, từ trên nhìn xuống thấy toàn là tim, và các cô bé tha hồ nghịch, selfie đủ kiểu. Một cô bạn nói "chắc chỉ ở VN mới có"? 


Trở lại trên con đường đi tìm mai anh đào, qua những con đường ngày nay trồng mai anh đào nhiều nhất là dọc theo bờ hồ Xuân Hương, đường Trần Hưng Đạo trong thành phố, cuối cùng chúng tôi đã gặp rất nhiều rừng đào đang nở hoa ở gần thác Bảo Đại, và trên cung đường đi qua hồ Tuyền Lâm. Trên đường đã thấy các "phượt thủ" dừng chân say sưa săn ảnh. Thiên nhiên nơi đây thật đẹp, chỉ thấy trời xanh, mặt hồ yên tĩnh, những ngôi nhà ẩn hiện trên đồi, trong rừng cây dưới thung lũng. Chen lẫn trong màu hồng tuyệt đẹp của mai anh đào thấp thoáng sắc vàng rực nắng của mimosa và màu đỏ của hoa trạng nguyên, tím hồng của bông giấy. Có một quán ăn phía trong sâu, nơi ngó ra hồ, mái lợp bằng lá, đong đưa bụi hồng leo màu trắng và những giò lan rừng. Nắng trưa càng lúc càng gay gắt, lên cao mới thấy gió nhiều, và ánh sáng rất chói. 


Các họa sĩ trong nhóm bắt đầu chọn những góc ngồi riêng để ký họa. Tôi đi dần lên đồi cao, nơi có những mái lá nhấp nhô và vườn đào chen nhau mọc theo hướng đi xuống về phía thung lũng. Nắng và bóng đổ của cây cối, bụi cỏ và hoa tạo thành một bức tranh lung linh màu sắc. Những cánh bướm bay chập chờn quanh những khóm hoa tường vi. Trên các lùm cây, chim rừng đua nhau hót véo von. Với tôi trong chuyến đi này, đây là nơi đẹp nhất, có thể lưu lại thêm cả tuần trong lần sau để tiếp tục khám phá.
Chỉ hy vọng rằng ... để kịp ghi lại được vẻ đẹp thiên nhiên còn trong trẻo như hôm nay vào ký ức, vào tranh hay ảnh, việc xây dựng khu du lịch, hay dự án biệt thự cho thuê nào đó sẽ chầm chậm lại ... 

Bài viết và hình ảnh: Nguyễn Diệu Tâm
Tháng 2- 2019
 

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2019

Claude Monet và những cánh đồng hoa Anh túc.


Danh họa Claude Monet và những cánh đồng hoa Anh túc.
Bức tranh nổi tiếng nhất của ông về chủ đề hoa Anh túc là bức Les coquelicots hay La promenade (Cuộc đi dạo), qui cách 50*65 cm, vẽ hoàn tất vào năm 1873, được triển lãm trong cuộc triển lãm tranh của trường phái Ấn tượng lần đầu tiên vào năm 1874.
Năm ấy nhà danh họa 33 tuổi, đang sống tại Argenteuil (Val- d'Oise). Bức tranh được nhà buôn tranh Paul Durand-Ruel mua, sau đó thuộc tài sản của họa sĩ Ernest Duez, rồi đến ca sĩ và nhà sưu tập Jean-Baptiste Faure, tiếp đó là ca sĩ và nhà sưu tập Étienne Moreau-Nélaton. Bức tranh trở thành tài sản của Nhà nước Pháp khi được hiến tặng vào năm 1906 trước khi thuộc về bảo tàng Louvre (Musée du Louvre). Hiện nay được chuyển giao cho bảo tàng Orsay (Musée d'Orsay).
Bức tranh vẽ một cánh đồng hoa anh túc bát ngát, phía trước là một người phụ nữ đầu đội mũ rơm, tay cầm dù - có lẽ là bà Camille Doncieux, vợ của nhà danh họa, và một đứa trẻ, Jean Monet, con trai ông, năm ấy 6 tuổi.
Trong suốt nhiều năm sau kể từ bức tranh Les Coquelicots đầu tiên ấy, Claude Monet đã vẽ nhiều bức tranh khác cùng chủ đề như:
* L'été. Champ de coquelicots, 1875, 60*81 cm Collection particulière
* Champ de coquelicots près de Vétheuil, 1879, 73*92 cm Fondation et Collection Emil G. Bührle, Zurich
* Champ de coquelicots, 1881, 58*79 cm Musée Boijmans Van Beuningen (Rotterdam)
* Champ de coquelicots dans un creux près de Giverny, 1885, 65*81 cm Musée des beaux-arts de Boston
* Champ de coquelicots à Giverny, 1885, 60*73 cm Musée des beaux-arts de Virginie, Richmond (Virginie)

* Champ de coquelicots, (W1255), 1886 Musée de l'Ermitage (Saint-Pétersbourg)
* Champ d'avoine aux coquelicots, vers 1890, 65*92 cm Musée d'art moderne et contemporain de Strasbourg
* Champ de coquelicots à Giverny, 1891, 61*96 cm, Institut d'art de Chicago.

Les Coquelicots, 1873, 50*65 cm.

L'été. Champ de coquelicots, 1875, 60*81 cm
Champ de coquelicots près de Vétheuil, 1879, 73*92 cm
Champ de coquelicots, 1881, 58*79 cm
Champ de coquelicots dans un creux près de Giverny, 1885, 65*81 cm
Champ de coquelicots à Giverny, 1885, 60*73 cm
Champ de coquelicots, 1886
Champ d'avoine aux coquelicots, vers 1890, 65*92 cm
Champ de coquelicots à Giverny, 1891, 61*96 cm