Thứ Ba, 19 tháng 12, 2017

NHỮNG VÌ SAO ĐÊM GIÁNG SINH



Tháng 12. Mùa cuối năm. Mùa Giáng sinh. Tôi vẫn thích gọi đây là mùa Giáng sinh hơn mùa cuối năm, một phần vì cuối năm của người Việt vẫn là tháng chạp, tháng chuẩn bị cho mùa Tết, nhưng rõ ràng vào mùa này đi đến đâu, không chỉ ở những đất nước tận trời Âu rộn ràng cho mùa lễ Giáng sinh mà ở Việt Nam cũng vậy, phố phường xôn xao mua bán, trang trí, nhất là khi bạn vào khu xóm đạo nơi luôn có một ngôi giáo đường dù nhỏ hay lớn, cũng sẽ thấy một bầu không khí trong sáng và thiêng liêng bao trùm. Những ngày còn nhỏ, gia đình tôi sống nhiều năm ở nơi mà phần lớn là tín đồ đạo Phật nên đền chùa rất nhiều, đến hàng trăm ngôi chùa trong đó có những ngôi cổ tự hơn 300 năm. Cách nhà tôi không xa lắm chỉ có một ngôi giáo đường, hàng năm khi mùa Giáng sinh về nhà thờ thường trang trí nhiều đèn hoa rực rỡ, trong đó có một hang đá Bê Lem lớn với tiểu cảnh Chúa sinh ra đời. Tôi thường chạy bộ đến đó cùng ông anh, ngắm mải mê những tượng Thánh, Chúa, thiên thần trong hang đá. Tôi thích những vì sao lớn lấp lánh, và dường như rất sáng trong đêm Noel… Cho đến bây giờ, hàng năm đến mùa Giáng sinh, tôi cũng vẫn còn thích ngắm hang đá và những vì sao sáng đó.
Có một điều gì đó đặc biệt hơn cả với tôi trong năm là đi đâu đó xa nhà trong mùa Giáng sinh. Năm nay có một bất ngờ khi tôi được gia nhập đoàn đi Gia Lai phát quà cho các trẻ em Tây nguyên. Vẫn không biết trước chương trình sẽ đi đến đâu nhưng quả thật tôi không ngờ mình được sống trong một không khí đúng nghĩa Giáng sinh hơn cả. 5 giờ sáng thức giấc trong tiếng chuông nhà thờ đổ, tôi nhìn thấy một bầu trời với luồng ánh sáng tinh khôi của một ngày mới. Chóp nhọn của nhà thờ vươn cao trên nền trời nơi màu cam đỏ đang ửng dần lên. Và những vì sao sáng rực đằng đông, phía trên tháp chuông và rừng thông, đẹp đến ngất ngây như một bức tranh.


Cùng với cha Hải, linh mục giáo xứ Hiếu Đức Pleiku, thưộc giáo phận Kontum, chúng tôi khởi hành đến làng Plơi Nu cho kịp giờ lễ sáng lúc 6:00 g. Đó là một “vương cung thánh đường” nhỏ bé ở một ngôi làng nghèo xa xôi, tuy rất nhỏ và đơn sơ nhưng vẫn toát lên vẻ nghiêm trang, uy nghi giữa núi rừng. Mái lợp bằng tôn, vẫn dựa theo cấu trúc của nhà thờ với mái nhọn và cao nhưng tô điểm, trang trí với những hoa văn J'rai. Chính giữa trên cao là tượng Chúa trên cây thập tự giá, hai bên là tượng thánh Giu Se và đức mẹ Maria. Tôi cũng chú ý đến một vài vòng hoa giấy kim tuyến đơn sơ quấn quanh một thanh tre đặt gần cửa sổ, nơi có một cây thánh giá chỉ là 2 mẩu gỗ ghép lại và một cái đinh đã mòn đóng giữa, có lẽ là trang trí cho mùa Giáng sinh của một người nghèo khổ nào đó có tấm lòng dâng lên Chúa.
Khi mặt trời vừa lên, từ trong bản dân làng lần lượt đến nhà thờ. Họ cung kính cúi đầu chào cha Hải rồi những người đàn ông lặng lẽ vào cửa ngồi phía bên phải, trên những chiếc chiếu trải dài dưới đất. Phụ nữ bên trái, là bà lão lưng còng tay dắt đứa cháu nhỏ, những người đàn bà rất trẻ địu con sau lưng và trẻ con cùng ngồi theo hàng ngang. Yên lặng và trang trọng trong suốt hơn một tiếng đồng hồ đọc kinh, hát thánh ca và nghe cha giảng đạo. Ngôn ngữ là tiếng Jrai.


Khi tan lễ, mọi người còn dừng lại tụ tập ngoài sân. Khuôn mặt họ hân hoan vui vẻ, đám trẻ con cũng thân thiện vì biết đoàn do cha xứ đưa đến, là “người quen” của cha. Những người phụ nữ được nhận mỗi người một sợi dây chuyền mặt thánh giá. Họ vui vẻ đeo cho nhau. Một bà lão mân mê mặt dây chuyền, tỏ vẻ xúc động. Bọn trẻ con thì mỗi đứa một gói bánh kẹo to. Già làng và vài người đàn ông đứng nói chuyện cùng cha Hải. Tôi nghe loáng thoáng tiếng già làng nói: “Có vài người không đến. Bảo đi họp, không đi”… Tôi nhớ đến ngôi nhà rông khá lớn và đẹp của làng, cách nhà thờ không xa, nghe nói đó là nhà rông do xã dựng lên cho bà con trong xã tụ tập theo truyền thống của người dân tộc. Nhưng dù là ngôi nhà rông khang trang, dân trong xã vẫn chưa có thói quen đến đó mỗi lần xã gọi họp. Còn hôm nay đến lễ ở nhà thờ dân làng khá đông, cũng gần trăm người.


Rời làng Plơi Nu, chúng tôi đi qua làng Plơi Ó ăn sáng. Nhà thờ nơi đây cũng do cha Hải thành lập và các soeurs phụ trách. Nhà thờ ở đây khang trang hơn, đẹp hơn bên Plơi Nu và có một bộ cồng chiêng. Một xơ (soeur) đang bế một bé gái 9 tháng tuổi có đôi mắt tròn xoe kháu khỉnh trên tay. Cha Hải cho biết đó là một đứa bé mồ côi nhà thờ đang nhận nuôi. Xơ nói cuối năm sẽ về Bắc và xơ đã xin cha Hải cho đem theo đứa bé về cùng. Hỏi chuyện xơ, tôi nghe được một câu chuyện thương tâm: Mẹ đứa bé là một người phụ nữ Gia Rai bị tâm thần. Mang thai hoang, làng họp bắt cô ta phải phá thai. Theo phong tục, người Gia Rai không đến bệnh viện mà người mẹ của cô gái sẽ tự bóp bụng con cho trụy thai. Trước đây, chính người mẹ ấy cũng đã mang thai hoang và bà ngoại cô gái đã bóp bụng con để trục thai. Không chết trong bụng mẹ, cô gái ra đời và mang di chứng từ đó, tâm thần và mù một con mắt. Thai đã 4 tháng, nhà thờ xin nhận về nuôi đứa bé từ lúc còn trong bụng mẹ. Ơn Chúa, đứa bé ra đời kháu khỉnh, linh hoạt. Xơ nâng niu ẵm bồng từ lúc mới sinh ra nên thương yêu như con đẻ. Xơ khoe “Bé có thể cầm dùi đánh chiêng rất giỏi đấy các bà ạ!” Nhìn cách xơ trìu mến nhìn bé, hôn và âu yếm bé, tôi xúc động quá. Đứa bé may mắn hơn mẹ nó nhiều khi được nhà thờ nuôi, có xơ yêu thương nhận nuôi dưỡng suốt đời. Hỏi xơ về số phận người mẹ điên, xơ bảo: “Nó có biết gì đâu! Lúc khóc lúc cười, bỏ đi đâu mất, có lần về lại nhà thờ, xơ đưa con bảo bế, nó vùng bỏ chạy, đi mất rồi”…
Chúng tôi được các xơ đãi món bún riêu ăn sáng. Các xơ nấu rất ngon. Ngồi trên nhà sàn, cha Hải ôm bé vào lòng và hỏi: “Chúa đâu con?” Con bé ngước lên nhìn vào mặt cha chăm chăm, đôi mắt trong veo. Cha cười chỉ lên cây thánh giá trên tường bảo: “Chúa ở trên kia, không phải ở đây!” Mọi người cùng cười. Ai cũng xúc động.


Đi loanh quanh trong làng, trong lúc tôi đi tìm chụp ảnh những bông hoa cà phê trắng ngần trong các vườn cà phê nơi đây, các bạn kể đã gặp một phụ nữ chưa đến tuổi 30 nhưng đã đẻ đến 9 đứa con. Cha Hải cho biết đó không phải là trường hợp duy nhất. Người dân tộc họ sống tự nhiên giữa núi rừng, cái ăn cái mặc mọi thứ đều đơn giản, đơn giản đến độ … không cần gì. Họ không biết phòng tránh thai. Cứ đẻ, “trời sinh voi sinh cỏ” thôi! Cha kể: “Họ nghèo lắm. Đến nhà thăm, họ bảo mời cha ở lại ăn cơm với chúng con. Không có một cái chén. Cơm bày ra dưới đất thì cứ lấy tay mà bốc. Cha hỏi cho cha cái ly uống nước, họ đưa cha trái bầu hồ lô khô”…
Buổi trưa hôm ấy, chúng tôi còn đi thăm ngôi làng JRai thứ ba, là làng Plơi Bô, và ăn trưa ở nhà cha Hải. Buổi chiều ghé các làng Sê Đăng: Ealuh, K’Mông, Ku Tong. Điểm cuối là Vườn Mít, nơi cha ở lúc ban đầu trước khi về nhà thờ Hiếu Đức ở phố Pleiku. Nhưng quen rồi, cha thích ở trong làng hơn ngoài phố. Hàng ngày cha vẫn cọc cạch trên chiếc xe gắn máy cũ đi từ làng về phố rồi đi qua các nhà thờ ở bản làng xa xôi khác để làm lễ. Có đêm về khuya, đường vào nhà vắng tanh nơi khu dân cư còn thưa thớt, qua một con suối bỗng thấy có hai mẹ con đứng bên đường. Đi qua rồi cha tự hỏi ai mà đứng giữa rừng trong đêm khuya thế kia, quay lại thì không thấy họ nữa. Sau đó mới nghe dân làng kể, đó là nơi có một người mẹ đau khổ đã ôm con nhảy xuống suối tự tử mà chết.


Ở các làng chúng tôi đã đến đều có những điểm trường mầm non. Các nơi này tuy đơn sơ nhưng đều rất sạch sẽ và các cô bảo mẫu có khi vừa địu các cháu nhỏ trên lưng vừa chăm sóc các cháu lớn. Đứa thì tè hay ị ra quần, đứa đòi ẵm, đứa khóc la nhặng xị cả lên. Cũng như đa số các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hay Tây Bắc theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ cưới chồng về để giữ nhà. Ngoài chuyện sinh đẻ, người phụ nữ còn phải làm lụng cực khổ để nuôi gia đình. Họ lên rừng nhặt củi, ra nương rẫy trồng trọt, xuống suối bắt cá tôm, đi đâu cũng phải địu theo con nhỏ trên lưng. Thương đám trẻ phải dầm mưa dãi nắng theo mẹ ngoài đồng hay trong rừng sâu, cha Hải lập các điểm trường giữ trẻ. Các cô bảo mẫu cũng là người Gia Rai được đào tạo để chăm sóc các cháu. Các cháu sẽ ở trường suốt ngày, trưa được ăn và ngủ đúng giờ. Chiều cha mẹ các cháu đến đón về nhà. Hỏi kinh phí ở đâu để cha làm tất cả những việc này. Cha trả lời cha vẫn tự xoay sở là chính. Còn “học phí” của các cháu bé, thì phụ huynh muốn đóng góp ngô khoai, lúa gạo gì thì tùy hỷ, ai nghèo quá thì được miễn.


Trong suốt 12 năm sống ở Tây Nguyên, cha Hải đã thành lập được 17 giáo điểm nhà thờ và 6 điểm trường mầm non để giữ trẻ. Đó là một kỳ tích. Theo tìm hiểu tôi thấy cha đã vượt qua bao nhiêu khó khăn để có được thành quả như ngày nay. Người dân tộc không dễ tiếp cận. Tôi nghe nói nơi đâu họ đang sống, có người Kinh đến là họ bỏ đi. Họ vốn thật thà, không biết nói dối, không quanh co mưu mẹo lừa gạt ai. Có lẽ vì theo bản năng của một dân tộc mà ngày xưa vào cuối thế kỷ 15 từng một thời là tiểu quốc J'rai lẫy lừng nên họ đâm ra cảnh giác, muốn sống riêng rẽ để bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc, nhưng một khi đã làm cho họ tin tưởng rồi thì họ rất chân thành và cởi mở. Khi đi qua những đoạn đường đèo hiểm trở, nhìn xuống thung lũng sâu hút bên dưới, thường thấy những mái nhà nhấp nhô của những bản làng người dân tộc, bao quanh một cái hồ, hay một dòng suối nào đó. Họ sống như thế, lặng lẽ và đơn giản với thiên nhiên, rừng núi, đơn sơ như bản chất tự nhiên của họ. Rất ít người biết tiếng Việt. Vì vậy, ngoài những ngôn ngữ cha đã học như tiếng La tinh, Pháp và Anh, cha còn lặn lội học thêm tiếng Gia Rai (J'rai) và Sê Đăng (Sedang) để đến với họ.


Thấy cha đi đâu cũng chỉ sử dụng chiếc xe gắn máy cũ, chúng tôi hỏi sao cha không đi bằng xe hơi cho an toàn vì đường xá quá xa xôi, hiểm trở và nhiều nơi còn rừng rú hoang vắng, cha trả lời: “Đến với người nghèo mình phải và nên như thế”. Hơn nữa, đường vào các bản làng xa xôi thường là xuyên qua rừng, rất khó đi nên phương tiện của các cha dòng thánh Phanxico (Francisco) mà tôi gặp trong lúc đến thăm các nhà thờ cũng chỉ là chiếc xe gắn máy cũ. Khi đến nhà thờ lớn và đẹp nhất ở xứ đạo làng Sê Đăng, lúc mời đoàn uống trà, cha xứ cho biết hôm nay vừa đi vào một bản rất xa để làm lễ sáng, khi về cha và thầy phó tế lạc đường, loanh quanh trong rừng sâu hơn 3 tiếng đồng hồ mới tìm được lối ra đường cái. Tổng cộng gần 7 tiếng đồng hồ để đến bản ấy. Chúng tôi lo âu nhìn cha hỏi nếu vậy thì mất nhiều thì giờ quá và sẽ trễ nãi những công việc khác cũng như ảnh hưởng đến sức khỏe các cha. Cha chỉ cười không nói.
Ngoài 6 điểm trường mầm non, cha Hải còn xây thêm phòng ở nhà thờ Hiếu Đức nuôi dạy khoảng 50 cháu người Gia Rai, Sê Đăng ăn học cho đến lớp 12. Các cháu đi học trường nhà nước và về ở đây, cùng nấu cơm và tự dọn dẹp lấy. Từ phòng ăn, phòng khách, các phòng ngủ, nhà bếp, sân vườn, tất cả đều sạch sẽ tươm tất. Chúng tôi đã ở 3 đêm tại nhà thờ, không thể tin nổi là chỉ có cha Hải và một thầy quản lý tất cả. Một bầu không khí năng động vui vẻ nơi đây. Đêm nào tôi cũng thấy sau khi ăn cơm, các cháu tập múa hát trước sân chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh. Đám trẻ con trong giáo xứ chơi đùa trong sân, dưới ánh sáng của những ngọn đèn từ khu vườn tượng Đức mẹ và từ những cây thông cao trong sân.


Chỉ nhìn những nhà thờ trong làng đã đi thăm, những ngôi trường cha Hải đã gầy dựng, sinh hoạt của các con em Gia Rai nơi đây, chúng tôi cũng hiểu được những gian khổ cha đã trải qua. Trong góc sân sau của khuôn viên nhà thờ, có một “bảo tàng dân tộc” nhỏ. Khi vào tham quan tôi rất xúc động. Nơi đây cha gìn giữ những kỷ vật mà dân làng vì yêu quý cha mà đem đến tặng người. Từ những cái hũ, bình gốm, các tượng nhỏ mô phỏng tượng nhà mồ, những nông cụ họ dùng trong công việc đồng áng, còn có một tủ cha cất giữ các “bùa phép” mà người Gia Rai khi vào đạo đã tình nguyện đem đến nhờ cha giúp “diệt” dùm, vì “chúng con không làm được”, đó là những cái hũ đựng ngãi mà “khi bỏ một con gà vào nó cũng tự tiêu ra thành nước” v.v…
Trong góc phòng, có một cái quan tài mà dân làng đã yêu quý tặng cha Hải. Quan tài bằng gỗ được bào láng khá đẹp, dài 3 m, ngang hơn 3 tấc, giữa khoét một lỗ dài chỉ rộng chừng gang tay. Nhìn thì thấy … ghê ghê nhưng thật cảm động khi vào “bảo tàng” nhỏ bé này ai cũng nhận ra tình cảm yêu quý chân thành dân làng dành cho cha. Và đó chính là tình yêu và hạnh phúc đã giữ cha ở lại với họ.

 

Đêm cuối trước khi rời Pleiku, tôi cũng đứng lặng nhìn những ngôi sao trên trời một lần nữa như trước khi đến. Bầu trời cao nguyên trong vắt. Có một vầng trăng non mỏng như chiếc lưỡi liềm vắt qua trời bên cạnh những vì sao long lanh trong đó có một vì sao sáng lạ thường. Tôi bỗng nhớ đến ngôi sao sáng đã dẫn ba Vua đến hang Bê Lem trong đêm Chúa sinh ra đời…

Tháng 12- 2017
Nguyễn Diệu Tâm
Những Vì Sao Đêm Giáng Sinh I.:
https://www.facebook.com/ngdieutam/posts/1648731631857260


Chủ Nhật, 15 tháng 10, 2017

Ngôi làng cổ tích Zaanse Schans, Hà Lan

Từ lâu lắm rồi, lúc còn nhỏ xíu thì phải, hình ảnh cô gái Hà Lan với bộ áo đầm truyền thống, chân mang đôi guốc gỗ ngộ nghĩnh, tay ôm liễn sữa đứng trước cánh đồng hoa tulip và những chiếc cối xay gió luôn cho tôi giấc mơ về một đồng quê yên bình, thơ mộng ở trời Âu. Thế rồi hôm nay, tôi đã đến nơi ấy, được tận mắt nhìn thấy nơi sản xuất phó mát, guốc gỗ, những vườn hoa, những ngôi nhà nhỏ xinh xắn, chiếc cối xay gió nằm thành hàng trên cánh đồng bao la ở khu đồng quê Zaanse Schans, phía bắc Hà Lan, bên một dòng sông thanh bình ở thị trấn Zaandam, cách Amsterdam chừng 18 km. 


Mùa thu đã về nơi đây. Người ta bảo ở Hà Lan một năm chỉ có 100 ngày nắng, có lẽ chỉ vào mùa xuân và hạ. Khi đến đây vào mùa thu, bầu trời đầy mây xám, tôi đi dưới cơn mưa thu lất phất rơi, gió thổi về lạnh buốt. Nhưng cái đẹp yên bình mà dễ thương bí ẩn như trong cổ tích làm tôi quên đi cơn mưa và cái lạnh. Những ngôi nhà nhỏ có vườn hoa trước nhà xinh xắn làm sao! Trên đường làng trồng những hàng cây ô liu già soi bóng bên hồ nước xanh, xa kia là cánh đồng gợi nhớ đến những bức tranh của Van Gogh. 


Trong thế kỷ 17 và 18, có hàng nghìn chiếc cối xay gió dọc theo đê điều hỗ trợ nền kinh tế của Hà Lan bằng cách cung cấp năng lượng cho các nhà máy cưa, nhuộm, dầu. Đến thế kỷ 20, khi nền công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, những nhà máy dùng cối xay gió dần biến mất.
Vào những năm 1960, người dân Hà Lan đã đấu tranh với chính quyền để giữ lại những di tích cổ. Sau đó Hà Lan bắt đầu phục dựng các kiến trúc truyền thống như những ngôi nhà gỗ màu xanh có khung cửa sổ trắng, một số nhà máy dùng cối xay gió với kích cỡ khác nhau tại làng Zaanse Schans. Một số cối xay gió ở đây có tuổi đời hơn 300 năm. Và nhưng chiếc cối xay gió này đều còn hoạt động chứ không phải chỉ để làm cảnh.


Thú vị nhất khi được thăm xưởng sản xuất guốc gỗ. Một nghệ nhân biểu diễn cho du khách xem cách làm guốc. Clog là một loại guốc được làm một phần hay toàn bộ bằng gỗ. Người ta kể lại, xưa kia người nông dân nghèo Hà Lan phải khoét những miếng gỗ lớn làm thành guốc, với mũi vểnh lên, bên trong độn rơm cho ấm chân vào mùa đông.
Cũng có ý kiến cho rằng do địa hình Hà Lan trước đây nằm thấp hơn so với mặt nước biển nên vùng đất này luôn ẩm ướt. Thay vì đi giày da như dân ở những nước châu Âu khác, người Hà Lan sử dụng guốc gỗ. Trông chúng giống như những chiếc thuyền nhỏ. 


Guốc gỗ Hà Lan còn có tên gọi khác là Klomp. Màu sắc cơ bản của họa tiết vẽ trên giày thường là màu đỏ để mô phỏng giày da. Về sau guốc được vẽ với nhiều màu sắc và hoa tiết xinh đẹp. Gỗ được chọn để đóng guốc thường là dương tía, liễu hay tần bì. Ngày nay, mặc dù ngành công nghiệp da giày ở Hà Lan đã phát triển song nhiều người nông dân và ngư dân vẫn giữ thói quen đi guốc gỗ.
Một điểm đến hấp dẫn khác của Zaanse Schans là cửa hàng phô mai "De Catherina Hoeve". Ở đây có hàng trăm loại phô mai khác nhau, cửa hàng còn bán cả sô cô la, bánh quế, da cừu và nhiều món quà lưu niệm khác. Ở cửa hàng lưu niệm nơi làm guốc, còn có những bó hoa tulip bằng gỗ rất đẹp. 


Chiều đang xuống trên cánh đồng. Những nhà máy xay gió vẫn bình thản đứng dưới mưa. Tôi thấy mình như đang bước vào giấc mơ ngày nào, nhưng ... mùi cỏ và gỗ thơm, những cây dẻ, cây sồi trên đường làng rắc xuống những chiếc lá vàng, giọt mưa thu hắt vào mặt .. thì là gì nhỉ?
Tôi bấm vào cánh tay. Thấy đau. À ... là thật đấy, không phải mơ đâu!  

Zaandam, the Netherlands
Mùa thu 2017
Dieu Tam Nguyen
Mời bạn xem thêm ở đây:
https://www.facebook.com/ngdieutam/media_set?set=a.1585362034860887.1073742248.100001613180918&type=1

Ăn sáng tại khách sạn. Quý khách khởi hành tới thành phố Lisse của đất nước Hà Lan, tham quan Lễ hội hoa Tulip tại vườn hoa Keukenhof (từ 23/3 đến 21/5). Ghé thăm Trung Tâm Thương Mại Kim Cương Amsterdam, chụp hình tại Hoàng Cung, du thuyền trên sông Amstel thơ mộng. Sau bữa tối, Qúy khách về khách sạn nghỉ ngơi. Tự do tham quan khu Red Light & sòng bài Hà Lan (chi phí tự túc).

Xem nội dung đầy đủ tại: https://travel.com.vn/tourNNSGN8004-001-230318TK-V/ha-lan-bi-phap-le-hoi-hoa-tulip-tour-tiet-kiem.aspx
Nguồn: travel.com.vn

Thứ Ba, 12 tháng 9, 2017

QUẢNG BÌNH, TRONG MÙA TRĂNG THÁNG BẢY



Những ngày đầu tháng 9- 2017, nhằm vào mùa Vu Lan, ngay sau ngày 16 âm lịch, cùng với Hội tình nguyện Chung tay vì cộng đồng (CTVCĐ) và Hiểu & Thương (H&T) chúng tôi lại lên đường về miền Trung.  Vào mùa thu năm ngoái cũng vào tháng 9 là chuyến đi khánh thành nhà bán trú trường PTCS Dân tộc Trà Thanh ở huyện Tây Trà, một huyện nghèo nhất tỉnh Quảng Ngãi, thì năm nay chúng tôi về khánh thành điểm trường Hưng trường mầm non số 1 Xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
Buổi chiều ngày 7/9, đáp máy bay Vietnam Airlines khởi hành 6:00 pm từ Sài Gòn và đến Đà Nẵng sau hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi dùng cơm tại Đà Nẵng rồi đi ngay ra Huế lúc 8 giờ tối. Dừng chân ở Huế lúc nửa đêm, chờ xe đi Quảng Bình 2 tiếng đồng hồ, đoàn đã có một đêm không ngủ ngắm trăng khuya tháng 7 bên bờ sông Hương. Đến Huế nhiều lần, với tôi đây là lần đầu tiên được lang thang trên cầu Trường Tiền lúc nửa đêm, ăn bún bò Huế và chè khuya dưới chân cầu, được bất ngờ chứng kiến một không khí mua bán nhộn nhịp nơi đây nửa đêm về sáng. 

Điểm trường Xuân Nam, Trường Mầm non Hoa Thủy, xã Hoa Thủy, Lệ Thủy

5 giờ sáng đến Quảng Bình, khi mặt trời chưa lên và vầng trăng khuya vẫn còn vương vấn chưa tàn trên bầu trời ửng hồng có nhiều mây bay qua. Ngày đầu tiên của chuyến đi đoàn chúng tôi đã đi thăm và trao tặng sách, dụng cụ học tập ở điểm trường Xuân Nam trường Mầm non Hoa Thủy, xã Hoa Thủy huyện Lệ Thủy và trường Mầm non Hưng Thủy xã Hưng Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông bà, cha mẹ các cháu là nông dân trong huyện, hàng ngày đầu tắt mặt tối làm lụng nuôi gia đình nên các em cần một nơi bán trú như ở đây, được các cô giáo dạy dỗ chăm sóc. Xã đã hỗ trợ cho các em hơn 70% của số tiền học phí khoảng 110 ngàn đồng/tháng. Ở điểm trường Mầm non Hoa Thủy, chúng tôi chú ý có một bé gái, gầy gò và rất nhỏ so với bạn bè đồng trang lứa. Cô giáo cho biết cháu bị ảnh hưởng chất độc da cam đã 3 đời từ thời ông nội. Cháu không phát triển được như các bạn, nhưng cũng phải đến trường để được hòa nhập vào cuộc sống.

Trường Mầm non Hưng Thủy, xã Hưng Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Rời Lệ Thủy, xe đưa chúng tôi đi Trọng Hóa sau khi ghé Phong Nha, huyện Bố Trạch dùng cơm trưa. Đoạn đường từ đây đi bản Hưng mất hơn 3 tiếng đồng hồ, đường đi gian nan vì phải vượt đèo. Xe đi qua đèo Đá Đẽo, biên giới Lào – Việt Nam, trên con đường Trường Sơn năm xưa, nơi đã có không biết bao nhiêu con người đã chết mà nay hồn thiêng vẫn còn vất vưởng đâu đây. Cái tên đèo Đá Đẽo đã hình thành từ việc những người đi đầu vượt tuyến phải đẽo từng tảng đá vôi để xe đi qua cung đèo, giữ thông suốt huyết mạch giao thông.
Đoạn đèo dài 17 km quanh co ngoằn ngoèo hiểm trở, ngày xưa bom đạn cày nát nghe nói cây cỏ còn sống không nổi, nay đã là rừng xanh bạt ngàn, có những con suối dòng thác chảy mãi về cửa sông. Dưới ánh nắng trưa gay gắt, xe chúng tôi băng qua con đường rừng và đã đi nhầm đường phải quay trở lại. Càng lên cao, con đường lên miền núi càng hiểm trở, chỉ thấy rừng trùng trùng điệp điệp, những ngọn núi đá đục đẽo thành bậc thang, và đất sỏi khô cằn. Thỉnh thoảng thấp thoáng vài căn nhà sàn gỗ của người dân tộc Bru-Vân Kiều nằm lọt thỏm giữa núi rừng. Chung quanh hoang vắng, nhưng cũng có một “cây xăng” nhỏ là một túp lều gỗ ở giữa rừng. Một người phụ nữ dân tộc thấy xe dừng hỏi đường, lật đật chạy vào trong lấy ra vài nải chuối rừng bày trên cái sạp trống rỗng.
Khoảng 4 giờ chiều chúng tôi đến bản Hưng. Cái bản làng nhỏ này ngày nay đã có một ngôi trường tiểu học khang trang. Có hơn 70 trẻ em đến tuổi vào mẫu giáo. Trước đây các em học tạm ở nhà cộng đồng của làng. Hội tình nguyện Chung Tay vì Cộng Đồng đã đi tìm hiểu nghiên cứu tình hình từ một năm nay, vận động mạnh thường quân chung tay đóng góp xây dựng tặng cho bản Hưng một ngôi trường mầm non gồm có 4 lớp học, 2 nhà vệ sinh và một sân chơi. Vì không có đất rộng trong bản, xã đã cho cắt một quả đồi để xây trường. Do thời gian nhiều người trong đoàn bận rộn không đến đúng dịp ngôi trường hoàn thành cần phải thêm vài ngày nữa mới xong, vì vậy khi chúng tôi đến, khoảng sân trường vẫn còn đang được tráng xi măng và các lớp học đang được thợ xây dựng tất bật sơn quét bên trong. 

Điểm trường Hưng, Trường Mầm non số 1 xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa.

Đứng trên ngọn đồi cao nhìn xuống thung lũng hun hút thấy dòng sông Khe Rào lững lờ trôi qua những bờ đá sỏi bên dưới và chiếc cầu treo Ông Tú bắc qua con suối rộng 20 m như gọi mời chúng tôi đến thăm. Một thanh niên trong xã nói gì đó với trưởng đoàn của chúng tôi. Tiến Danh hăng hái đề nghị: “Chúng ta sẽ chia ra làm 2 nhóm: 1 nhóm vào bếp phụ các cô giáo lặt rau nấu nướng cho bữa ăn tối nay ở bản. Nhóm còn lại theo em trai này ra suối tắm rửa. Ai muốn ra suối nào?” Danh đánh trúng tim đen của nhóm tình nguyện thành thị, nghe đến tiếng “suối” là gần hết cả đoàn giơ tay lên. Trưởng đoàn nói tiếp: “Em trai này đang cần trồng 10 cây mít giữ đất cho sân trường mé sát dốc đồi, vậy đề nghị các cô chú anh chị trả phí cho em ấy dẫn đường xuống suối”. Mọi người đều hoan hỉ góp tiền để được xuống suối. Cuối cùng số tiền góp đủ để trồng 20 cây mít! Thế là vì lòng yêu thiên nhiên hơn ẩm thực đã lôi kéo 2/3 đoàn đi xuống suối. 

Nhà sàn gỗ của người dân tộc Bru-Vân Kiều bản Hưng.

Và kìa là chiếc cầu treo nối liền 2 bản Hưng và bản Ông Tú, được đặt tên là Cầu Khuyến học & Dân trí.
Có lẽ mọi người còn nhớ loạt bài báo Đại Đoàn Kết, Vnexpress viết vào tháng 9 -2011 về thảm cảnh “Học sinh miền núi bơi đến trường”. Đây là tình trạng của học trò vùng miền núi bản Ông Tú và Ka Oóc, xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình. Hằng ngày để đến trường các em đều phải bơi qua sông Khe Rào nước sâu và chảy xiết vô cùng nguy hiểm đến tính mạng. Cách trung tâm xã Trọng Hóa chừng 7 km, bản Ông Tú có 20 hộ dân với 106 nhân khẩu, trong đó có 14 em đang học tiểu học. Bản Ka Óoc gần đó cũng có hơn chục em học tại trường THCS Trọng Hóa. Hai bản này cùng nằm bên kia sông Khe Rào (thượng nguồn sông Gianh), biệt lập với thế giới bên ngoài. Mỗi sáng các em phải thức dậy thật sớm vượt quãng đường đồi dốc xuống sông Khe Rào. Các em cho cặp sách, quần áo vào vào túi nylon rồi cùng bơi qua sông. Có em không mang theo bao nylon thì bơi một tay, tay còn lại giơ cao cặp sách lên đầu cho khỏi ướt. Vào mùa lũ, các em phải nghỉ học chừng một tháng vì nước sông Khe Rào chảy xiết, không thể bơi qua được. Các em đều sợ bơi qua sông, nhưng vì muốn học “cái chữ” nên phải cố vượt qua những đoạn nước sâu chảy xiết. Vào mùa đông giá buốt, nước sông cạn hơn nhưng cũng phải lội qua những chỗ nước sâu. Với các học sinh nam thì việc bơi qua đoạn sông rộng 20 m chỉ mất vài phút, nhưng với các em bé gái là cả một thử thách lớn. Có một số học sinh nhỏ học mẫu giáo tại bản, giáo viên từ nơi khác phải tìm cách qua sông để đến trường dạy. Xã cấp cho một chiếc thuyền thì vào mùa lũ, thuyền lại bị trôi mất. Kể từ ngày đó học sinh trong bản muốn đi học thì phải biết bơi để qua sông.

Cây cầu treo nối liền bản Hưng và bản Ông Tú

Tháng 10-2011 một cây cầu treo đã được xây dựng nơi đây bắc từ bản Hưng qua bản Ông Tú. Cầu có chiều rộng 2.7 m, dài 105 m với tổng trị giá 9.8 tỷ đồng (nguồn vốn của Chương trình 30a và bạn đọc Báo điện tử Dân trí đóng góp).
Từ con suối nhìn lên chiếc cầu treo chênh vênh, chúng tôi rất xúc động. Đẹp làm sao những tấm lòng vàng! Giữa núi rừng xanh thẳm vây quanh, dòng sông vắt qua như giải lụa mềm bên dưới, chiếc cầu treo vừa hùng vĩ và hiên ngang xiết bao. Bao nhiêu con người, các em nhỏ học sinh không còn phải bơi qua sông để đến trường, ra phố thị mua bán. Có chiếc cầu thông thương, mọi liên lạc dễ dàng hơn rất nhiều, hy vọng đời sống dân bản sẽ khá hơn, các em học sinh kiếm được con chữ đi vào tương lai tươi sáng hơn.

Người phụ nữ dân tộc bản Hưng đi rẫy về.

6 giờ chiều, sau khi làm lễ khánh thành trường Mầm non bản Hưng cùng với các đại diện huyện, xã, các thầy cô giáo, đoàn chúng tôi có một buổi ăn tối, giao lưu với người dân bản. Một bữa ăn đậm chất núi rừng với thịt heo rừng, gà rừng, măng rừng … Ở đây người ta không làm món cơm lam như người Ê Đê ở Daklak. Họ cũng nấu cơm, loại gạo dẻo như xôi. Cơm dọn ra giữa sân trường tiểu học và thực khách cùng ngồi xuống đất. Không có đèn bên những mâm cơm nên chúng tôi phải soi ánh sáng từ điện thoại. Ngó lên bầu trời, đêm nay trăng mọc muộn nhưng đã thấy rất nhiều vì sao nhấp nháy trên bầu trời. Sống ở thành phố đã lâu, đêm nay tôi cảm thấy mình như trở lại tuổi thơ ngày nào đêm thường nhìn lên trời đếm sao. Tôi tìm chùm sao Bắc đẩu và thấy cả sao Hôm. Sao nhiều quá trên nền trời đen thẫm như trong một bức ảnh nào đã chụp được giải Ngân hà. Một lát thì trăng lên cao, từ trên đỉnh núi. Trăng hôm nay đã già nên ánh trăng vàng hơn, nhưng thật là đẹp khi trăng chiếu xuống dòng suối. Những viên đá cuội có màu tím, màu bạc tha hồ lấp lánh. Tiếng suối róc rách. Vài cánh chim đêm vút bay lên cao. Hương hoa rừng thoang thoảng đâu đây…
Tôi chợt nhớ đến những câu thơ của sư Giới Đức của Huyền Không Sơn thượng:
“Nghe đạo hương rừng theo gió đến,
Đọc thơ, trăng sáng vượt non về”…
Ôi, như một giấc mơ thần tiên!  

Bắt cá tôm trong dòng suối Khe Rào

9 giờ tối, chúng tôi về huyện Minh Hóa, nghỉ trong một khách sạn dưới chân núi. Sáng hôm sau thức dậy rất sớm để tiếp tục di chuyển qua huyện Quảng Trạch thăm mái ấm Hy Vọng Vincent, một cơ sở từ thiện của các nữ tu dòng Mến Thánh giá ở xã Quảng Phương. Đây là ngày thứ ba của cuộc hành trình, và cũng là ngày cuối của đoàn chúng tôi ở đất Quảng.
Quảng Bình là nơi hứng chịu nhiều hàng ngàn tấn bom đạn trong chiến tranh. Đến nay chiến tranh đã qua đi nhưng dư chấn và ảnh hưởng của nó vẫn còn ở lại với niềm đau thương dai dẳng không cùng. Năm 2007, mười nữ tu sĩ của nhà thờ xã Quảng Phương đã xin phép thành lập mái ấm để nuôi dưỡng hơn 70 cháu, trong đó có 12 cháu mồ côi,  61 cháu khuyết tật, bại não, thần kinh, bị ảnh hưởng chất độc da cam, bị cha mẹ bỏ rơi được các xơ đem về cưu mang chăm sóc. Để có tiền trang trải mọi chi phí trong việc nuôi dưỡng các cháu, các xơ đã sắp đặt vừa chăm sóc các cháu vừa làm ruộng, chăn nuôi vịt, gà… 

Mái ấm Hy vọng Vincent ở xã Quảng Phương, huyện Bố Trạch.

Chúng tôi đã từng đến một số trung tâm nuôi dưỡng các cháu khuyết tật nhưng có lẽ nơi đây tập trung nhiều hơn cả. Trong phòng, có 2 xơ đang ẵm vào lòng và đút cho 2 cháu ăn. Một cháu bị thần kinh ốm trơ xương nhỏ như một đứa bé 2 tuổi, hỏi xơ thì được biết cháu đã lên 9. Đôi mắt cháu có hàng lông mi cong vút, nước da trắng, không ai có thể ngờ cháu đã 9 tuổi. Một xơ chỉ cho tôi thấy hai cháu gái chừng 12, 13 tuổi đang đứng ngoài hành lang, có cháu đang bế một em nhỏ. Xơ nói: “Các cháu cũng bị thần kinh, nhìn thì thấy bình thường như vậy đó, nhưng dạy hoài vẫn không biết tự mặc áo quần”… Giữa phòng chờ của trung tâm, một số cháu đang ngồi trên xe lăn, trên khuôn mặt dại khờ nở những nụ cười ngu ngơ. Các xơ ở đây đều có trình độ  đại học và cao đẳng, tốt nghiệp ngành Công tác xã hội ở Đại học Quốc gia Tp HCM hoặc Đại học Y Dược Huế nên việc chăm sóc các cháu được tốt, phòng ốc đều thoáng mát sạch sẽ, vệ sinh.  

Trao quà cho Mái ấm Hy Vọng Vincent

Rời mái ấm Hy Vọng, mỗi người mang một nỗi niềm riêng nhưng cùng tâm trạng là chua xót trước những mảng đời bất hạnh. Khi thấy chúng tôi lên xe, các cháu dù không nhận thức được gì nhưng vẫn khóc đòi theo, có cháu vừa khóc vừa ôm chầm lấy các cô chú trong đoàn không chịu buông ra. Dù sao đi nữa, trong trái tim của mỗi con người được sinh ra đều có chỗ cho tình thương yêu, một thứ vô hình nhưng vô cùng quan trọng và cần thiết để sống trên đời này.
Đã vài lần đến Quảng Bình, với tôi đây là một vùng đất có nhiều màu sắc của cuộc sống nhất. Giữa một không gian mênh mông bao bọc bởi núi rừng, những ngọn núi già và hang động thạch nhũ kỳ ảo như thiên đường đã hình thành từ hàng triệu năm dọc theo dãy Trường Sơn như động Phong Nha, động Thiên Đường, Sơn Đòong và còn nhiều hang động khác chưa được phát hiện, Quảng Bình còn có một hệ thống sông suối khá lớn với 5 dòng sông chính mà nổi tiếng nhất là sông Gianh và Nhật Lệ, 160 hồ tự nhiên và nhân tạo, nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, chì, kẽm... hay khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Thêm vào đó là bờ biển dài hơn 116 km, chung quanh có những hòn đảo che chắn diệu kỳ, nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền đã tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn, phong phú những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô… Trên suốt đường đi qua nhiều thị trấn, làng xã của Quảng Bình, tôi không ngủ để chỉ ngắm bên đường những rặng núi phủ đầy cây xanh kéo dài như không dứt, những dòng sông, con suối óng ánh trong nắng, biển rất xanh và cát thật trắng, những con thuyền chiếc tàu ngoài khơi xa, những cánh đồng lúa bất tận, đồng quê êm đềm dưới hàng dừa, bóng tre… Thế nhưng, có một điều tưởng chừng như nghịch lý giữa cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ và khoáng sản trời cho là thiên tai và cái nghèo. Màu sắc đó còn trộn lẫn cả những khổ đau cùng hy vọng của con người. 

Bến thuyền động Tiên Sơn, Phong Nha, Quảng Bình.

Cuối cùng, là lời cảm ơn gửi đến Hội tình nguyện Chung Tay Vì Cộng đồng cùng nhóm từ thiện Hiểu & Thương của các cựu nữ sinh trường Gia Long – Sài Gòn đã hợp tác tổ chức chuyến đi công tác từ thiện đầy màu sắc này. Cảm ơn và chúc các mạnh thường quân, các nhà bảo trợ, các anh chị em tuổi từ đôi mươi đến U70, 80 đã cùng tham gia chuyến đi một trái tim khỏe trẻ mãi cùng chân cứng đá mềm để tiếp tục cuộc hành trình khó dứt của chúng ta đến với những mảnh đời bất hạnh.

Tháng 9 – 2017
Nguyễn Diệu Tâm