Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

TRÊN ĐỈNH TÀ LƠN

Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe người lớn nói với nhau “Muốn tu thì lên núi Tà Lơn mà tu!” Cứ tưởng núi Tà Lơn chỉ là truyền thuyết, vậy mà hôm nay tôi đã đặt chân lên đến đỉnh Tà Lơn, mới hay nơi từng gắn liền với nhiều câu chuyện ly kỳ, đầy huyền thoại này nằm ở đất Campuchia mà người Khmer gọi là núi Bokor.
Núi Tà Lơn hay Bokor cách thị xã Kompot, tỉnh Kompot chừng 10 km về hướng Tây Nam, và cách Phnompenh 150 km. Đỉnh cao nhất so với mặt nước biển khoảng 1.080 m. Năm xưa dãy núi này là nơi các cụ tổ sư, giáo chủ, đạo sĩ người Việt từng tu luyện trên đỉnh núi thiêng, trong nhiều hang động, có người đắc đạo tiên. Trong số đó có Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, Nguyễn Thành Đa ( Cử Đa, đạo hiệu là Ngọc Thanh), Huỳnh Phú Sổ (Giáo chủ đạo Hòa Hảo), Ngô Văn Chiêu (khai sáng đạo Cao Đài) v.v.. Có cả các vị tu sĩ người Thái Lan, Miến Điện hoặc các pháp sư, thầy bùa, thầy ngải khắp nơi cũng thường lui tới. Đây cũng được xem như là một thánh địa linh thiêng mà nhiều đoàn hành hương đã lội suối băng rừng tìm đến hội tụ để tinh tấn tu hành.

Lan Thiên, cao nguyên Bokor.

Xưa kia ngọn núi này là chốn thâm sơn cùng cốc, địa thế hiểm trở, nơi rừng thiêng nước độc, có nhiều loài cầm thú nguy hiểm, hùm beo, chằng tinh gấu ngựa, “Xứ hiểm địa chim kêu vượn hú, Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan, Ngó dưới sông con cá mập lội dư ngàn, Nhìn trên suối sấu nằm như trăm khúc” (*). Tại ngọn núi này cũng có nhiều hang động, đá tảng hình thù kỳ lạ, cùng nhiều loại cây ngải, thảo dược quý mà có người đã phát hiện được trên con đường “tầm sư học đạo”. Đến năm 1917 khi người Pháp bắt đầu khai phá núi thiêng xây dựng nhà thờ, đền chùa, cửa hàng, bưu điện. khách sạn, casino v.v… thì tấm màn huyền bí về Tà Lơn dần tỏ lộ, dấu tích những hang động cổ xưa cùng những xây dựng thời Pháp nay đổ nát hoang tàn nhiều đã trở thành di sản kỳ thú gắn liền với truyền thuyết của Tà Lơn như tượng nữ thần Veang Kh’mau (người Việt gọi là dì Mâu), tượng Ông Địa, chùa Năm Thuyền (Wat Sampov Pram), điện Tứ Giao, Minh Châu, Lan Thiên, Trung Tòa, cổng Bàn Ngự … là những nơi linh thiêng, cùng một số đền tháp, nhà thờ cổ phủ đầy rêu đỏ với thời gian.

Wat Sapov Pram - Chùa Năm Thuyền cổ.

Ngày nay, để đến núi Tà Lơn, nếu đi từ An Giang, Kiên Giang thì đi qua cửa khẩu quốc tế hay cửa khẩu địa phương mất khoảng 3 – 4 tiếng đồng hồ đi xe từ biên giới Việt Nam là đến núi.
Từ Phnompenh đi lên núi Tà Lơn thì xa hơn, khoảng trên 5 tiếng. Còn chúng tôi, cùng với sư Minh Trung, khi đoàn khởi hành từ Bến Ván lúc 5 giờ sáng, đến thành phố biển Sihanoukville (tiếng Khmer là Krong Preah Sihanouk hay Kampong Som) 12 giờ trưa, nghỉ ngơi chừng 2 tiếng tiếp tục lên đường, đến tỉnh Kompot khoảng 4 giờ chiều, gần hết cả ngày.
Đến Kompot, khi lên đến ngọn đồi lưng chừng núi nơi có tượng thờ nữ thần Veang Kh’mau, trời bỗng sập tối, mây đen kéo về, gió lạnh và có mưa nhỏ hạt. Con đường ngoằn ngoèo như rắn lượn dưới xa kia như mờ dần đi. Trên bầu trời bao la, phía xa xa trên đỉnh núi Tà Lơn chợt xuất hiện một cánh chim đại bàng đang xòe rộng cánh bay lượn mấy vòng thật ngoạn mục rồi từ từ biến mất trong lớp sương mù dày đặc. Có được nhìn thấy cánh đại bàng dang cánh bay lượn trên bầu trời mây vần vũ mới thấy loài chim này đúng là hình ảnh của tự do và kiêu hùng giữa núi rừng bát ngát. Tiếc là tôi không chụp hình kịp! Rồi chừng 15 phút sau, mây tan, chút nắng hoàng hôn ló dạng. Thời tiết trên núi Tà Lơn chợt nắng chợt mưa là như vậy.


Tượng nữ thần Veang Kh'mau (dì Mâu) trên đỉnh Tà Lơn.
Trên ngọn đồi cao, tượng nữ thần cai quản núi Tà Lơn Veang Kh’mau cao 28 m to lớn nổi bật thật đẹp giữa núi rừng. Truyền thuyết kể rằng, bà là một phụ nữ người Việt đến dạy cho dân làng cách trồng lúa, làm ăn. Một ngày kia bà đi tìm chồng rồi bị bão đánh lật thuyền mà chết. Bà hiển linh cứu giúp dân làng và yêu cầu người dân cúng bà biểu tượng Linga.
Trên đường lên đỉnh núi, chúng tôi dừng lại Lan Thiên. Trong lúc mọi người cùng tản qua phía bên trái cung đường thì riêng tôi được một người khuyên nên qua cánh đồng phía bên phải sẽ bắt gặp nhiều thứ lạ lùng hơn. Không biết ngày xưa như thế nào nhưng nơi đây bây giờ chỉ là cánh đồng bát ngát nhấp nhô vô số những tảng đá lớn nhỏ, hình thù lạ kỳ, có tảng thành hình rồng, hình Phật Di Lặc v.v.. Một số chỗ từng là nơi tu hành của các vị tổ sư, đạo sĩ. Ở đây có nhiều cây bá tùng (lá của cây bách và tùng trên một cây), một loại cỏ thân mảnh và nhọn, nhiều loại địa lan và cây "nắp nước", một loại cây có hoa với nắp đậy mà ngày xưa những người đi lạc vào rừng có thể uống nước mưa trữ trong các bông hoa, cũng là một trong các loại thảo dược quý. Theo các tài liệu địa chất, xưa kia có lẽ Bokor là biển nên ngày nay có nhiều đá tảng hình thù kỳ lạ do nước xói mòn, và mặt đất lẫn nhiều cát trắng mịn. Và cứ thế, tôi say sưa đi theo rừng đá lạ, nếu không có tiếng còi xe báo hiệu lên đường có lẽ tôi còn đi nữa, xa nữa … rồi lạc!

Bình minh trên đỉnh Tà Lơn (cao nguyên Bokor)

Đi tiếp hơn nửa tiếng nữa, chúng tôi ghé tham quan Thansur Sokha hotel, một khách sạn lớn sang trọng có đến 564 phòng. Từ thời Pháp Bokor đã trở thành khu nghỉ dưỡng cao cấp, bị bỏ phế hoang tàn sau chiến tranh thì ngày nay là khu nghỉ mát, du lịch và hành hương, vì vậy đường đi lên núi rất tốt, phong cảnh và các khách sạn, resort rất đẹp. Bokor nay đã hồi sinh bằng việc xuất hiện một khu phức hợp nghỉ dưỡng giải trí trên cao nguyên cao cấp đầu tiên do Tập đoàn Sokimex của Oknha Sokun (Công tước Sokun), một tỷ phú gốc Việt, làm chủ đầu tư. Ông cũng là người đầu tư xây dựng Angkor Wat ở Seam Reap và nhiều công trình, dự án lớn khác ở nhiều thành phố như Sihanoukville, Seam Reap… Ở Bokor ông cho xây dựng các khách sạn, villa nằm cạnh các phế tích huyền bí và cho tái hiện resort và casino cổ thời Pháp. Thansur rộng 4.000m2, đường nội bộ được xây dựng dài 200km đã giúp kéo các điểm di tích lại gần nhau hơn. Kể từ đó, Bokor thu hút khá nhiều du khách từ nhiều nơi trên thế giới. Đỉnh điểm, Bokor có thể đón 70.000 lượt khách tham quan trong ngày. Một số điểm tham quan khác ở Bokor còn có Thạch Lâm, Cánh đồng 500 và 100 mẫu, Đầm Đen, thác nước hai tầng Povokvil (Đám mây xoáy), Trung tâm Thiền Bokor, biệt thự vua Monivong… Gần phía khách sạn Palace có những tảng đá xếp như vảy rồng, ngày xưa người ta tin nơi đây thần tiên từ trên trời thường xuống đây đàn ca hát xướng vào những đêm trăng rằm. Cách đó không xa là nhà thờ cổ do người Pháp xây dựng năm 1920, khu khách sạn cổ đã bỏ hoang nhiều năm, bám đầy rêu đỏ. Trên đỉnh Tà Lơn, dưới nắng chiều một ngôi chùa hiện ra uy nghiêm giữa trời mây bên vực núi cao dựng đứng, đó là Wat Sampov Pram (chùa Năm Thuyền), là nơi đoàn chúng tôi trú ngụ một đêm khi lên đến núi. Đây cũng chính là nơi sư Minh Trung của An Hòa tự, Bến Ván từng tu tập trước khi hạ sơn. Chùa do vua Monivong xây dựng vào năm 1924. Người Việt gọi là chùa Năm Thuyền vì có 5 tảng đá nhô ra hình dạng như 5 chiếc thuyền vươn ra phía biển, gắn với tích truyện 5 con thuyền đầy châu báu của hoàng tử Preah Thong và công chúa Thủy cung Nagani năm xưa từng đến vùng núi này trú ngụ và hoàng tử Preah Thong được xem như là cha đẻ của nền văn minh Khmer. Đây cũng là nơi đắc đạo của nhiều bậc chân tu, có cả giáo chủ các tôn giáo miền Nam là Phật Thầy Tây An, Đức Huỳnh Giáo Chủ…

Wat Samov Pram - Chùa Nam Thuyền trên đỉnh Tà Lơn.
Dựa theo một số tài liệu thì hình ảnh chùa Năm Thuyền ngày xưa khá nhỏ chứ không phải nằm trong một quần thể lớn như bây giờ, có lẽ đã được đại trùng tu. Wat Sampov Pram nằm trên ngọn đồi cao, vách đá rêu phủ đỏ thắm. Còn ngôi chùa lớn nằm giữa sân ngày nay có hai tầng, khá dài và rộng. Bên ngoài thiết kế theo kiểu đền tháp Campuchia với hai tượng đầu rắn thần Naga chầu hai bên bậc cấp dẫn lên cửa chính của chùa, nhưng cách trang trí bên trong lại đậm màu sắc Phật giáo dân gian của miền Tây Nam bộ. Bàn thờ Phật ở chính điện, nhỏ gọn. Hai bên hành lang và trên trần là những bức phù điêu thạch cao lớn khắc họa các tích truyện trong cuộc đời đức Phật từ lúc đản sinh, xuất gia, thành đạo và nhập Niết bàn. Đêm hôm ấy chúng tôi nghỉ tại chùa, tắm nước suối trong, ăn cơm chay và nằm đất. Về đêm trời càng lạnh, có mưa nhỏ và gió núi thổi về hun hút. Do đi đường khá mệt nên mọi người đều lăn ra ngủ say. Tôi thức giấc mấy lần trong đêm vì lạnh, phải lấy thêm áo ấm mặc. Mở cửa ra ngoài chỉ thấy một màn đêm và sương phủ bao quanh núi rừng. Một số chị em trong đoàn ban đêm không dám ra ngoài vì sợ ma. Riêng tôi lại có một cảm giác kỳ lạ, có phần thú vị khi nghĩ mình đang ở trên đỉnh núi Tà Lơn … nghe tiếng mưa rơi trên lá khuya, tiếng dế giun, chim núi kêu và gió lạnh trong đêm vắng. Càng về khuya, không khí núi rừng càng trong trẻo thanh khiết. Không còn là nơi rừng thiêng nước độc, hùm beo thú dữ như năm xưa, mà dường như chỉ còn lại đâu đây dấu tích của người năm cũ, những vị tổ đạo, thiền sư, hiền giả đi tìm nơi thanh vắng tu hành còn lưu lại bên những hang động, những mái chùa, đền tháp cổ linh thiêng. 

Tượng Phật ở Wat Sampov Pram, Bokor.

Sáng sớm hôm sau tôi thức dậy khi mặt trời chưa lên. Sương mù dày đặc che kín cây cỏ hai bên đường mòn. Dần dần sương tan và nắng lên. Tôi đi tản bộ quanh chùa. Có nhiều tảng đá chất chồng tự nhiên bám đầy rêu xanh rải rác đó đây. Có hai lối đi, một phía bên trái lên đồi cao hơn, có bậc cấp cao đá đỏ dẫn lên trên Wat Sampov Pram. Điện thờ, tháp cổ và những bức tường gạch đỏ đầy rêu phong huyền bí, có rêu xanh và cả rêu đỏ. Giữa sân có tượng đức Phật trên một hồ nước. Phía bên phải là lối dẫn đến vườn tượng, mô tả cảnh đức Phật Thích Ca chuyển pháp luân cho 5 anh em Kiều Trần Như. Trên cao nhất là tượng Phật Bổn sư uy nghi rất đẹp ngự trên tòa tháp phía vườn hoa. Quanh chùa không có lan can, chỉ có một bức tường thấp ngắn và nhiều tảng đá lớn nằm chênh vênh nơi vực sâu thăm thẳm bên dưới. Từ chùa phóng tầm mắt nhìn ra xa thấy biển và đảo Phú Quốc. Cảnh thiên nhiên nơi đây thật không kém chi thiên đường, nhất là khi bình minh mặt trời ló dạng và lúc hoàng hôn rơi xuống những tia nắng cuối ngày. Tôi cảm thấy mình thật may mắn đã chứng kiến Tà Lơn vào cả hai thời điểm trong ngày đó. Sắc màu của những pho tượng dát vàng hay bằng đá tuyệt đẹp, của mái ngói đền chùa, vừa cổ kính nghiêm trang khơi gợi quá khứ và lịch sử, những tàng cây và bông hoa đủ màu trong vườn chùa, thung lũng bên dưới xanh thẳm, tất cả khi ẩn khi hiện trong màn sương núi có thể ập đến bất cứ lúc nào, rồi những tia nắng lại tràn đến làm vạn vật trở nên óng ánh ... Ôi thật tuyệt vời. Vậy mà nơi đây từng bị bỏ phế hoang tàn, là thành phố ma cho đến năm 2002 khi đoàn làm phim của Hollywood đến quay bộ phim City of Ghost, Tà Lơn mới thật sự thức giấc ... như nàng công chúa ngủ trong rừng ... sau 100 năm!
Vẫn còn nhiều nơi chưa đến. Tôi hy vọng lần sau lại đến Bokor một lần nữa để được thấy nhiều hơn, và sẽ muốn ghé Shihanoukville, Koh Rong và Koh Rong Samloem, hai hòn đảo hoang sơ của xứ chùa Tháp được ví như “thiên đường Maldives” của Đông Nam Á.

Tháng 4-2018
Bài viết và hình ảnh: Dieu Tam Nguyen

(*) Trích “Thơ Núi Tà Lơn" của nhà văn Sơn Nam (1926-2008), một thời từng trú ngụ tại núi Tà Lơn.
Tham khảo một số tư liệu từ Google, Wikipedia.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét