Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

CÂU CHUYỆN VỀ BÀI HÁT LES FEUILLES MORTES

CÂU CHUYỆN VỀ BÀI HÁT NỔI TIẾNG: LES FEUILLES MORTES & AUTUMN LEAVES Bản gốc viết bằng tiếng Pháp là " Les Feuilles Mortes " ( “Những Chiếc Lá Úa” ) là lời than thở u sầu tiếc nuối cho một tình yêu đã mất . Bản dịch qua tiếng Anh, " Autumn Leaves ", ( "Những Chiếc Lá Mùa Thu" ) cùng một chủ đề , nhưng cách tiếc nuối thể hiện nhẹ nhàng hơn .
Bài hát có một cuộc đời khá lận đận. Bắt đầu vào năm 1945 là một bài thơ được viết bởi nhà biên kịch và nhà thơ Jacques Prevert như là một phần của kịch bản cho vở ba lê mang tên "Le Rendezvous" ( "Cuộc Hẹn Hò" ) . Hai năm sau, khi đạo diễn Marcel Carné làm một bộ phim ballet, nhà viết nhạc phim người Hungary là Joseph Kosma đã chọn bài thơ của Jacques Prevert làm nhạc nền cho bộ phim. Có lẽ vì bài thơ đã không được sáng tác dưới hình thức bài hát nên cấu trúc hơi khó sử dụng . Kosma đã chuyển bài thơ thành 24 trường canh của đoạn mở đầu, gồm có 2 âm điệu và giai điệu rõ ràng, và tiếp theo là một điệp khúc gồm 16 trường canh ( ½ độ dài của bài hát truyền thống Tin Pan Alley nổi tiếng của Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ). 
Bộ phim của Carné thất bại, nhưng diễn viên chính, một ca sĩ trẻ nổi tiếng tên là Yves Montand, tỏ ra thích "Les Feuilles Mortes" mặc dù không hát ca khúc ấy trong phim, nhưng ông đã đưa vào buổi hòa nhạc của mình. Ban đầu, bài hát chỉ nhận được sự lạnh nhạt. Không theo nhịp điệu, có một cấu trúc quá phức tạp, lại mang một thông điệp u sầu buồn bã … là những điều mà bài hát không được ưa chuộng. Nhưng Yves Montand vẫn tiếp tục hát. Trong vòng vài năm sau, bài hát trở thành nổi tiếng nhất của ông và là bài hát được yêu cầu nhiều nhất .
Trong khi bài hát đã thuộc về Montand , có một phiên bản đáng nhớ bởi một nữ ca sĩ người Pháp, Juliette Greco. Cô ca sĩ bohemien xứ Corse xinh đẹp, một " Little Miss Existentialist”, người theo chủ nghĩa hiện sinh, đã ghi âm bài hát này nhiều lần nhưng phiên bản đầu tiên của Montand vẫn là bản hay nhất. Với giọng hát mơ màng và chậm rãi , cô mang đến cho bài hát một sắc thái đặc biệt quyến rũ, cô hát như không bao giờ còn có thể được yêu mãnh liệt đến thế nữa.
Vào năm 1950 , khi bài hát cuối cùng đã được dịch sang tiếng Anh, chỉ có một phần nhỏ của bài thơ là còn tồn tại ( và rất hiếm khi được hát ). Chủ yếu là tính năng hấp dẫn ở phần điệp khúc. Người viết lời nhạc Johnny Mercer đã tạo ra một vài hình ảnh rung động như "đôi tay bỏng nắng anh dành để ôm em" và “ Bài hát mùa đông năm cũ ”, nhưng trong thực tế, đây là một bài hát hoàn toàn khác với bài thơ của Prevert và bản nhạc mà Kosma đã tạo ra. Trong khi bản gốc đã gom được tất cả sự mê đắm nồng nàn, thì bài hát này chỉ là một phiên bản đính kèm, mang lại vẻ hoài cổ hơn so với cảm giác âu sầu, nhiều buồn vui lẫn lộn hơn là niềm cay đắng xót xa .
Sau khi Nat "King" Cole đã lên vị trí thứ 1 trong cuộc lưu diễn vào năm 1955 đến lượt các ca sĩ của các hộp đêm - từ Frank Sinatra (năm 1957 thu âm trên dĩa Where Are You?) đến Tony Bennett, Eartha Kitt. Chick Corea, Stanley Jordan và Leonie Smith thì hát những phiên bản được cắt bớt gần đây.
Yves Montand tiếp tục hát bản gốc và thu âm cho đến khi ông qua đời vào năm 1991.

* NGUYỄN DIỆU TÂM phỏng dịch
   theo Behind the Song "Autumn Leaves" (performingsongwriter.com/autumn-leaves)
 
Những Chiếc Lá Mùa Thu ( Flower Story/Face Book )

Và những phiên bản:

1/ LES FEUILLES MORTES / AUTUMN LEAVES
Songwriters: KOSMA, JOSEPH / PREVERT, JACQUES ANDRE MARIE / MERCER, JOHNNY
(french lyrics by jacques prévert,
English lyrics by johnny mercer,
Music by joseph kosma)

French: LES FEUILLES MORTES
C'est une chanson, qui nous ressemble
Toi tu m'aimais et je t'aimais
Nous vivions tous, les deux ensemble
Toi que m'aimais moi qui t'aimais
Mais la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable les pas des amants désunis

NHỮNG CHIẾC LÁ ÚA
Đó là một bài hát, như chuyện tình đôi ta
Em đã từng yêu anh và anh yêu em
Chúng ta đã sống với nhau, hai ta đã bên nhau
Em đã từng yêu anh và anh yêu em
Nhưng cuộc đời chia rẽ đôi lứa yêu nhau
Thật nhẹ nhàng lặng lẽ
Và biển xanh đã xóa đi trên cát trắng
những dấu chân của đôi tình nhân không bao giờ tái hợp

English: AUTUMN LEAVES
The falling leaves drift by the window
The autumn leaves of red and gold
I see your lips, the summer kisses
The sun-burned hands I used to hold

Since you went away the days grow long
And soon I'll hear old winter's song
But I miss you most of all my darling
When autumn leaves start to fall

NHỮNG CHIẾC LÁ MÙA THU
Những chiếc lá rơi ngoài khung cửa sổ
Những chiếc lá mùa thu đỏ và vàng
Anh thấy đôi môi em, những chiếc hôn mùa hạ
Đôi tay bỏng nắng này anh dành để ôm em

Từ lúc em đi xa ngày trở nên thật dài
Đó là lúc anh sẽ nghe bài hát của mùa đông năm cũ
Nhưng em yêu dấu ơi anh nhớ em hơn tất cả
Khi những chiếc lá thu bắt đầu rơi ...

2/ LES FEUILLES MORTES (DEAD LEAVES)

Music by Joseph Kosma
Lyrics by Jacques Prévert
Translation © 2004 by Jacob Lubliner

Oh! je voudrais tant que tu te souviennes
Des jours heureux où nous étions amis
En ce temps-là la vie était plus belle,
Et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Tu vois, je n’ai pas oublié...
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Et le vent du nord les emporte
Dans la nuit froide de l’oubli.
Tu vois, je n’ai pas oublié
La chanson que tu me chantais.

REFRAIN:

C’est une chanson qui nous ressemble
Toi, tu m’aimais et je t’aimais
Et nous vivions tous deux ensemble
Toi qui m’aimais, moi qui t’aimais
Mais la vie sépare ceux qui s’aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et la mer efface sur le sable
Les pas des amants désunis.

Les feuilles mortes se ramassent à la pelle,
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silencieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie
Je t’aimais tant, tu étais si jolie,
Comment veux-tu que je t’oublie?
En ce temps-là, la vie était plus belle
Et le soleil plus brûlant qu’aujourd’hui
Tu étais ma plus douce amie
Mais je n’ai que faire des regrets
Et la chanson que tu chantais
Toujours, toujours je l’entendrai!

REFRAIN
Oh, I would like you so much to remember
Those happy days when we were friends, and how
Life in those times was more lovely and tender,
Even the sun shone more brightly than now.
Dead leaves are gathering as in December
You see how one never forgets...
Dead leaves are gathering as in December,
Just like the memories and the regrets.
And then the north wind comes and sweeps them
Into oblivion’s icy night.
You see how I never forgot
That old song that you sang for me.

REFRAIN:

A song like us, birds of a feather,
You loving me, me loving you,
And we lived happily together,
You loving me, me loving you.
But life tears apart gentle lovers
Who quietly obey their heart,
And the sea invades the sand and covers
The footsteps of those torn apart.

Dead leaves are gathering, dead leaves are piling
Up just like memories and like regrets.
But still my love goes on quietly smiling
Thankful for life and for all that it gets.
I loved you so, you were ever so lovely,
How can I forget? Tell me how!
Life in those times was more sweet and beguiling,
Even the sun shone more brightly than now.
You were my most sweet friend and lover,
But regret just isn't my thing,
And I’ll keep hearing all the time
The old song that you used to sing.

REFRAIN

Mời các bạn nghe bản nhạc Les Feuilles Mortes do Yves Montand hát lúc còn trẻ:
https://www.youtube.com/watch?v=JWfsp8kwJto
Và về sau:
https://www.youtube.com/watch?v=cOsVVeojMZs



 

Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

TIỂU THƯ

Buổi sáng cuối tuần, còn đang ngái ngủ, tôi nhận được tin nhắn của Rod, một trong những người khách hàng lâu năm: "Tôi vừa đến Việt Nam. Đây là số di động mới của tôi. Hãy liên lạc với tôi qua số này. Rất mong được gặp cô lúc 10 g sáng ở Highland Coffee, phía sau Opera House."
Vẫn như bao nhiêu lần trước mỗi khi Rod qua Việt Nam, thường là vài lần hoặc ít nhất cũng một lần mỗi năm, lần nào qua đến thành phố ông ta cũng liên lạc với tôi ngay lúc vừa đến nơi và hẹn đi ăn trưa. Là một khách hàng từ Canada lâu năm nhất của tôi, quen biết nhau đã lâu, làm ăn với nhau cũng đã lâu, nhưng lạ một điều là tôi cảm thấy mình luôn cảnh giác với ông ta. Khác rất nhiều với những khách hàng khác, Rod luôn có những thái độ đối xử bất nhất với những người có quan hệ với ông ta trong công việc, khi thì thân thiện, tốt bụng hòa nhã rộng rãi và không kém phần từ bi, khi thì lạnh lùng hiểm ác, keo kiệt bủn xỉn. Nhiều lần thấy ông mặc cả tiền xe với người tài xế taxi, hoặc buộc nhà hàng phải trả lại tiền thừa chưa đến 700 đồng, tôi cảm thấy xấu hổ. Ông luôn giải thích: Với tôi, mọi chuyện phải rõ ràng. Tôi không muốn bị ai lừa mình, dù chỉ một xu!
Tôi gặp ông khoảng 10 năm trước, lúc ông đến Việt Nam lần đầu tiên tìm nguồn hàng mua bán. Tôi cũng giới thiệu cho ông một số nhà cung cấp, trong đó có Tuân, chủ một nhà in. Ông rất quý Tuân. Khi nghe tin Tuân mất đột ngột vì tai nạn, ông đã khóc lúc đọc những dòng email tôi gửi báo tin. Lần qua Việt Nam vài tháng sau, ông rủ tôi đi thăm mộ Tuân, cách xa thành phố chừng 30 km. Ông đưa tay phủi những chiếc lá khô rơi trên mộ Tuân, rồi đứng lặng người rất lâu. Trên đường về ông nói với tôi: - Làm ơn tìm cho tôi một người săn sóc mộ Tuân. Tôi sẽ trả tiền để người ấy ngày nào cũng ra đây quét dọn cho mộ Tuân sạch sẽ và chăm sóc những bông hoa.
Ông thuê Hoàng, một người phiên dịch tiếng Anh để giúp ông trong công việc rồi cùng người này đi khắp miền Trung và Bắc tìm nguồn hàng, từ cà phê, trà, gỗ, sắt thép gì cũng làm. Hoàng kể: "Ông ta thật là siêng năng và dẻo dai, với thân hình đồ sộ hàng trăm ký lô thế kia, ông đi rất nhiều, hang cùng ngõ hẹp đều tìm đến, leo lên những ngọn đồi cao miền Bắc thoăn thoắt để mua trà, cà phê, tôi còn chạy theo không lại, chỉ sợ ông ấy to béo quá, có thể bị đứt mạch máu thì khổ!" 
Tôi đến Highland trễ khoảng nửa tiếng vì trên đường kẹt xe do mưa quá lớn. Rod ngồi bàn phía ngoài, gần hàng rào gỗ sơn màu trắng có những chậu hoa màu đỏ.
Tôi gọi một miếng bánh Tiramisu và một tách trà nóng. Vẫn như bao giờ, Rod nói hơi nhiều về chuyện gia đình, chuyện kinh doanh, chuyện thời sự quốc tế ... và tôi chỉ việc ngồi nghe. Quán cà phê càng lúc càng đông khách vì trời lại bắt đầu đổ mưa. Lại một cơn bão về.
- Cô còn nhớ con bé "Tiểu thư" chứ?
Đang im lặng nhìn ra ngoài trời đang mưa, tôi giật mình quay lại. 
- Có, tôi nhớ. 
- Tôi có hẹn với cô bé trưa nay. 
- Sao lần trước tôi nghe ông kể cô bé đã đi Mỹ rồi mà?
- Phải, cô bé ấy được một đôi vợ chồng Mỹ nhận làm con nuôi và bảo lãnh đi cách đây 8 năm.
- Thời gian qua nhanh thật! Vậy bây giờ vì sao "Tiểu thư" lại đang ở Sài Gòn?
- Trước đây, mùa hè nào nó cũng về Việt Nam mà không đi đâu nơi khác dù cha mẹ nuôi sẵn lòng cho nó đi holiday ở nhiều nơi. Khi vừa hoàn tất trung học, nó xin cha mẹ nuôi cho về Việt Nam học tiếp chương trình đại học. Họ đồng ý.
- Thật là lạ! Tại sao cô bé không học đại học bên Mỹ cho có tương lai hơn?
- Vấn đề là cô bé không thể rời xa gia đình. Nó là một đứa con gái tốt, rất thương yêu gia đình của mình.
Mưa càng lúc càng lớn, vì ngồi ngay ở phía ngoài nên mưa tạt vào phía bàn chúng tôi. Rod bảo tôi dời chỗ vào bên trong, nơi có cửa kín và không ai hút thuốc lá nhưng tôi vẫn thích ngồi bên ngoài. Những quán cà phê ngay trung tâm thành phố bây giờ thường có khoảng sân cho khách ngồi nhìn ngắm phố phường, người, xe qua lại vui mắt. Tôi nhìn ra đường, bên phải là khách sạn Caravelle, bên trái là khách sạn Park Hyatt, Continental và con đường chạy qua Nhà hát lớn thành phố là đường Catinat thời Pháp thuộc, mang tên đường Tự Do trước năm 1975 và bây giờ là Đồng Khởi. Vào thời kỳ nào thì con đường này cũng là một trong những con đường "vàng" của thành phố.
Vào thời khách du lịch đổ vào Việt Nam từ những năm 80, vì con đường này là một trong những trung tâm của những cửa tiệm, khách sạn, nhà hàng sang trọng nhất nên lúc nào du khách cũng đông. Du khách càng đông thì những dịch vụ mua bán càng nhiều, không chỉ trong tiệm mà còn tràn ngập đường phố. Một trong những dịch vụ mua bán đường phố này là đội ngũ trẻ em bán báo, sách tiếng nước ngoài, bưu thiếp, bán vé số v.v... cũng đông không kém. Để dễ tiếp cận khách nước ngoài, các em nói tiếng nước ngoài như gió, từ tiếng Anh, Pháp, Nhật, Hoa .., chỉ là những từ học lỏm đâu đó, nói riết rồi thành quen. Nhiều lần đi trên con đường này, tôi gặp những bé gái chừng 9, 10 tuổi, tay ôm cả chồng sách báo. Tôi hay xót lòng nên thường dừng lại mua chút ít gì đó để giúp đỡ. Hỏi về hoàn cảnh thì đa số kể: " Con đi bán hàng nuôi em con!" Hỏi cha mẹ đâu, cháu bảo "Cha mẹ con chết hết rồi!"... Có lúc thì là một bà cụ ngồi bên góc đường với chiếc nón lá rách để ngửa. Cho tiền, hỏi con cái cụ đâu. Bà trả lời: Tui có 3 đứa con trai. Vì con dâu bất nhơn quá không chịu nuôi nên thôi, ra đường kiếm ăn! Có lần một người khách đi cùng tôi nghe tôi kể đã xua tay: Không chắc đó đã là sự thật đâu!
"Tiểu thư" cũng ở trong đội quân trẻ em đường phố đó. Cũng hoàn cảnh tương tự như các em khác. Cha sớm say chiều xỉn, lại còn nghiện ma túy. Mẹ bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, phần thiếu ăn nên người xanh xao vàng vọt. "Tiểu thư" là chị lớn của đàn em 3 đứa con trai cũng theo chị mạnh đứa nào bán thứ đó. Cuối ngày về các em nộp tiền cho cha. Cha quăng cho vợ con vài đồng lẻ, còn lại ông trút vào rượu và ma túy. 
Rod gặp "Tiểu thư" trên con đường đó. Còn tôi biết đến cô bé khi Rod viết E-mail nhờ tôi tìm hộ một trường tiểu học nội trú của các ma soeur, và Hoàng thay mặt ông làm người giám hộ cho con bé. Ông từng nói với tôi: "Đó là một đứa bé thông minh, tôi sẽ giúp đỡ cho nó học hành tử tế. Học chữ và học đàn piano".
Vài tháng sau gặp lại Hoàng, cậu ta nói: "Ông Rod nuôi con bé ấy chỉ uổng công! Nó trốn học hoài. Nó quen cuộc sống tự do ngoài đường phố rồi, là một đứa bé bụi đời, giờ ông ta bắt nó phải nhốt mình trong những bức tường và biến nó thành cô tiểu thư nhà giàu, học hành tử tế, đàn piano, làm sao mà được! Trời, "Tiểu thư đường phố"!
Cái tên "Tiểu thư" bắt đầu được chúng tôi gọi từ đó. Có gì đó thật chua xót khi tôi cũng nghĩ như vậy. Tôi từng nói với Rod: Tôi thật lo là ông sẽ uổng công. Con bé như một cánh chim tự do, nay ông nhốt nó vào lồng son, rồi nó sẽ vỗ cánh bay đi thôi. Còn người cha như thế, chỉ suốt đời làm khổ gia đình. 
Nhưng Rod thì cho là nhà trường quản lý không tốt và Hoàng đã làm vai trò giám hộ không hết lòng. Ông nói với tôi: - Khổ cho Tiểu thư là nếu nó phải đi học như vậy thì ai là người kiếm tiền nuôi lão cha già nghiện ngập và bà mẹ bệnh hoạn cùng đám em nheo nhóc đó! Con bé mới 12 tuổi! Nhưng nếu tôi phải giúp cho gia đình nó để nó yên tâm học hành thì không thể được! Tôi không thể bỏ tiền ra để nuôi một tên nghiện!
Giờ đây tôi xúc động vì câu chuyện này. Tôi thấy ân hận vì mình đã có những lúc thoáng qua nghĩ không tốt về Rod, về suy nghĩ và hành động của "Tiểu thư". Tôi cứ tưởng ngày con bé được cha mẹ nuôi giàu có lãnh qua Mỹ, sẽ trở thành một cô tiểu thư thật sự, sẽ được học hành tử tế, rồi tuổi thơ cơ cực sẽ qua, rồi cô sẽ lập gia đình với một chàng trai nào đó, và cùng lắm cô sẽ về thăm gia đình lúc đã có công ăn việc làm ổn định, có tiền đủ để giúp đỡ gia đình. Nhưng không, một cô gái 20 tuổi, rời nước Mỹ và cuộc sống giàu sang của một tiểu thư thật sự để trở về nhà chỉ vì cái gia đình tội nghiệp của mình vẫn còn sống trong cảnh lang thang đầu đường xó chợ. Khi thấy cha mình đêm đêm ngủ ở gầm cầu, nay ở chợ Ông Lãnh, mai chợ Cầu Muối, những con đường Sài Gòn ngày nay càng phát triển thì cầu càng nhiều. Còn mẹ cô từng tha đứa em út ra miền Bắc kiếm ăn, 2 đứa em trai nhỏ còn lại thì đi nhặt ve chai, đói khát là chuyện thường ngày. Bên kia bờ đại dương, "Tiểu thư" ứa nước mắt hàng đêm, tâm nguyện của cô bé là sẽ có một ngày về Việt Nam gom gia đình lại thành một. Chỉ sợ nếu để muộn màng thì không bao giờ cô còn có thể gặp lại gia đình mình nữa. Và vì thế, con chim nhỏ tự do lại thêm một lần nữa, bay ra khỏi chiếc lồng son.
Rod nhìn đồng hồ chỉ 12 g trưa. Ông nhấn phím từ chiếc Black Berry nhắn tin. Rồi đưa điện thoại cho tôi đọc những dòng “Tiểu thư” viết trả lời: "Dad, ở chỗ con trời đang mưa lớn".  – "Cô bé đang ở đâu"? Tôi hỏi. Rod trả lời: – "Tôi không biết. Nhưng tôi bảo con hãy đi bằng taxi đến đây. Ta sẽ trả tiền xe". Tôi nhìn Rod lúc đó đang chăm chú vào điện thoại nhưng toát lên một vẻ thật trìu mến. Khuôn mặt với bộ râu quai nón rậm rạp lùm xùm và cặp kính tròn trễ xuống mũi trông ông giống như ông già Nô-en. Ông có vẻ hạnh phúc vì chữ DAD. Tôi lại nhớ có lần ông kể cho tôi nghe chuyện đời ông 40 năm về trước: “Lúc đó vợ chồng tôi rất nghèo, tôi phải may nệm ghế sa lông bằng tay. Nhưng chúng tôi rất hạnh phúc. Và rồi hạnh phúc đã không còn khi vợ tôi mất vì bệnh ung thư. Một thời gian dài tôi sống trong đau khổ vì mất mát quá lớn. 20 năm sau tôi gặp Christy. Bà ấy có 2 con gái riêng. Người chồng quá ích kỷ và tàn nhẫn nên bà ly dị. Khi tôi đến với bà ấy, tôi đã xem 2 đứa con gái của bà như con của mình. Tôi không có con. Và tôi thèm được làm cha".
- Bây giờ “Tiểu thư” làm gì?
- Con bé đi học đại học, chuyên ngành Quản trị Kinh doanh tại một trường Đại học Quốc tế ở Sài Gòn.
- Tiền đâu để đóng học phí? Trời đất, đắt lắm ông à! Tôi kêu lên.
- Cha mẹ nuôi cho tiền học. Buổi tối nó đi làm thêm kiếm tiền lo cho gia đình. Nó thuê một căn hộ chung cư nhỏ, gom cha mẹ và các em lại. Một đứa con gái mới 20 tuổi đầu mà lo cho cả gia đình như vậy thật là một gánh nặng quá sức. Nó là một thiên thần!
Khoảng vài giây sau, Rod ngoắc gọi tính tiền rồi đứng dậy:
- Thôi tôi phải đi đây. Tôi sẽ gặp Tiểu Thư ở bên kia đường.
Tôi cũng đứng dậy: - Cảm ơn ông đã kể cho tôi nghe câu chuyện này. Tôi thật sự rất cảm động!
Mưa nhỏ hạt dần nhưng khi bước ra đường vẫn bị ướt. Tôi mượn ở quán cà phê cây dù để đưa Rod đi qua đường rồi ông đi dọc theo con phố dưới những mái che. Tôi định nói với ông cho tôi gặp cô bé xem bây giờ con bé ra sao, nhưng rồi lại thôi. Cũng hơn 8 năm rồi tôi không gặp từ buổi tiệc bên hồ trong ngôi biệt thự Rod thuê ở khu Thảo Điền, Thủ Đức. Đêm hôm đó nhân dịp mẹ và Christy, vợ ông qua Việt Nam dịp Giáng sinh, Rod đã tổ chức party và mời nhiều bạn bè đến, có cả người nước ngoài và Việt Nam. Ông còn nói với tôi: Có lẽ chưa bao giờ mẹ con nhà "Tiểu thư" được tham dự buổi tiệc như thế này. Tôi muốn họ được biết đến tiệc Giáng sinh ít nhất là một lần trong đời. Lúc đó con bé chừng 12 tuổi, gầy nhom, nhỏ xíu, tôi chỉ còn nhớ mang máng nó có đôi mắt linh hoạt, ngồi cùng người mẹ gầy gò và 3 đứa em trai nhỏ khá quậy phá đêm hôm đó.
Khi quay trở về quán cà phê, trời vẫn còn mưa. Tôi đứng chờ cho mưa tạnh hẳn. Những bông hoa màu đỏ bên hàng rào gỗ sơn trắng trở nên tươi tắn hơn trong mưa. Tôi nghĩ đến cô bé Tiểu Thư, cuộc đời còn dài lắm. Em chỉ mới 20 tuổi. Rồi em sẽ làm gì, sẽ là ai trong ngày mai? Em sẽ tiếp tục sống ở đất nước này để đùm bọc cho gia đình em suốt đời hay khi họ tự ổn định cuộc sống được rồi em sẽ ra đi? Tôi có hỏi Rod câu này nhưng ông cũng lắc đầu: - Tôi không biết rồi cha mẹ con bé có khác hơn không chứ bây giờ họ vẫn sống hoàn toàn dựa vào nó. Nó tạo cho mẹ một tủ nhỏ bán thuốc lá trong khu chung cư nhưng hình như bà ta cũng chẳng làm được gì. Còn người cha, thật vô phương! Tôi cũng không biết phải khuyên nó như thế nào khi đã khuyên nó cách tốt nhất có thể, nhưng con bé vẫn lặng thinh làm theo ý mình. Chỉ mong rồi đây cuộc đời con bé sẽ sáng sủa hơn và gia đình nó hiểu được đứa con gái bé bỏng này đã thương yêu họ và hy sinh như thế nào.
Tôi vẫn chưa gặp lại Tiểu Thư, nhưng tôi đã hình dung ra em, một thiên thần có đôi cánh bé nhỏ.
Ngoài trời, mưa vẫn rơi...


Tháng 10, 2013
NGUYỄN DIỆU TÂM

Tranh của họa sĩ Ou Chujian CN


Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Những Ngôi Chùa Huế và Chuyến Hành Hương Về Quê Mẹ

Tôi lại trở về Huế vào mùa thu. Mùa thu năm nay có nhiều đổi thay lớn đối với gia đình tôi. Đau buồn nhất là mẹ đã qua đời và mục đích để chị em chúng tôi trở về thăm quê mẹ lần này là đi chùa cầu nguyện cho mẹ trong vòng 49 ngày sau khi mẹ mất. Chuyến đi ngắn ngày nhưng đây là cũng một dịp may không dễ có để tôi được viếng thăm những ngôi chùa Huế cổ kính trong đó có những ngôi chùa mà tôi từng mong muốn được đến nhưng chưa thực hiện được vào những năm trước.
Cúng thất đầu cho mẹ xong, chị em chúng tôi lên đường ngay buổi trưa ngày 17 tháng 7. Trước khi đi tôi có hỏi một số bạn người Huế xem có thể cho tôi biết một số địa chỉ chùa hay không? Anh bạn SG trả lời hãy để tùy duyên, và tôi nghĩ tùy duyên thật. Vì vậy lúc ra đi trong đầu tôi chỉ nhẩm nhớ đến một vài ngôi chùa Huế mà tôi đã biết, còn thì đành để đi đến đâu hay đến đó.
Sân bay Huế đang sửa chữa nâng cấp đến cuối tháng 9 mới xong. Chúng tôi phải bay ra Đà nẵng rồi thuê xe đi vào Huế. Quyết định chỉ trong vòng 1 buổi sáng, chúng tôi vào mạng đặt mua vé máy bay, đặt phòng khách sạn ở Hội An, Huế và Đà nẵng.
Tất cả đều được xác nhận rất nhanh trong buổi chiều trước ngày đi. Tuy nhiên vì chỉ lưu lại Huế 2 đêm, tôi không hy vọng lắm là chị em chúng tôi sẽ viếng được nhiều chùa. Tôi nói với các em trường hợp không đủ thời gian thì cố gắng ít nhất cũng phải đi viếng cho được 10 cảnh chùa.
Xứ Huế, quê mẹ tôi có rất nhiều chùa. Người địa phương bảo có đến 230 ngôi chùa lớn nhỏ. Một con số không nhỏ nơi chốn kinh thành còn rất nhiều lăng tẩm vua chúa, di tích cổ! Trên đường đi từ Đà Nẵng ra Huế, tôi nghe nói vùng biển Lăng Cô có rất nhiều chùa, nhưng khó vì không biết những ngôi chùa này nằm ở đâu. Thời gian quá ngắn không đủ cho chúng tôi đi tìm. Ngồi trên xe, em tôi lấy được từ tin nhắn của một cô bạn thường ra Huế làm từ thiện, cho biết một vài địa điểm cô nhi viện và viện dưỡng lão.
Ngôi chùa đầu tiên chị em tôi đến vào buổi trưa ngày 18 tháng 7, là chùa Từ Đàm. Trong ký ức ngày còn thơ của tôi hơn 45 năm về trước, là một ngôi chùa lớn và đẹp, lúc nào cũng đông khách thập phương, khói nhang nghi ngút, giờ đây vắng lặng vì trong mùa an cư.
Đây là một ngôi chùa cổ danh tiếng của Huế, tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế.  Từ cổng vào, có một bảng đá khắc lịch sử của ngôi chùa, do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung khai sơn vào khoảng năm 1690, vào thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ". Đến năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm, do kiêng tên húy của nhà Vua là Miên Tông, với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp".
 
Chùa Từ Đàm - Huế, khai sơn vào khoảng năm 1690

Vẫn còn đang trong tháng 6 âm lịch, mùa an cư kiết hạ của quý tăng ni  bắt đầu từ sau lễ Phật Đản rằm tháng 4 và kết thúc vào dịp lễ Vu Lan rằm tháng 7 nên chùa vắng vẻ, cửa chính điện đóng chặt nên chúng tôi phải vào lễ Phật bằng cửa sau. 
Lúc ban đầu hơn 330 năm về trước, chùa Từ Đàm chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng cây lá, sau nhiều lần trùng tu mới được như ngày nay.
Cổng tam quan được xây dựng năm 1965. Bên phải sân từ cổng vào là cội bồ đề có nguồn gốc từ cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ ( nơi Phật Thích Ca thành đạo). Bên trái sân là tháp Ấn Tôn 7 tầng, cao 27 m, mỗi tầng thờ một tượng Phật bằng đồng, khởi công năm 2008.

Chánh điện được tái thiết từ năm 2006 đến 2010 mới khánh thành. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bên có lầu chuông, lầu trống, theo kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. 
Lễ Phật xong, chúng tôi đi dạo quanh chùa. Mùi thơm của hoa trong vườn chùa thoang thoảng trong gió. Phải nói rằng kiến trúc chùa Từ Đàm rất đẹp và mỹ thuật, không rườm rà nhiều chi tiết. Điện Phật trong chính điện được bài trí tôn nghiêm, nhưng đơn giản. Chính giữa chỉ thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca, hai bên có phù điêu hai vị Bồ tát là Văn Thù Sư Lợi ( thường thấy tượng ngài cưỡi con sư tử ) và Phổ Hiền ( cưỡi voi trắng 6 ngà ). Phía trên chánh điện có treo tấm biển sơn son thiếp vàng đề ba chữ Hán: "Ấn Tông Tự".
Rời chùa Từ Đàm, xe chúng tôi chạy ngang qua chùa Báo Quốc, chỉ cách chùa Từ Đàm hơn trăm thước. Anh tài xế hỏi chúng tôi có muốn ghé không? Tôi gật đầu, bảo nhớ lúc nhỏ chị em tôi đã được cùng mẹ đi rất nhiều chùa, và chùa Báo Quốc là một trong những nơi mẹ đã dắt chúng tôi đến.

Chùa Báo Quốc - Huế, thành lập năm 1674

Đây cũng là một ngôi chùa cổ có lịch sử hơn 339 năm, tọa lạc trên đồi Hàm Long trên đất xưa gọi là làng Thụy Lôi. Chùa do Hoà Thượng Giác Phong, người Quảng Đông, Trung Quốc, khai sơn vào cuối thế kỷ 17 dưới đời vua Lê Dụ Tông và đặt tên là Hàm Long Tự. Sau đó Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban sắc tứ Báo Quốc Tự vào năm 1747. Cổng chùa xây năm 1749. Hiện nay vẫn còn tấm biển thếp vàng và những bức liễn từ thời ấy. 
Chúng tôi bước vào một cái sân rộng và rừng cây thâm u. Nắng chiều nhợt nhạt và bầu trời trĩu nặng như sắp đổ mưa làm cho cảnh chùa càng thêm tĩnh mịch. Cũng như chùa Từ Đàm, chính điện chùa Báo Quốc cũng đóng cửa. Chị em tôi đi qua sân thì thấy phía sau chính điện là một vườn hoa, cây kiểng đẹp. Một vị sư niềm nở mở cửa cho chúng tôi vào. Xong sư mời chúng tôi ngồi uống trà và hỏi chị em tôi từ đâu đến. Hóa ra đó là thầy trụ trì chùa, và ngạc nhiên hơn nữa là khi đọc tên cha mẹ chúng tôi nhờ chùa cầu siêu thì sư thầy cho biết 46 năm trước thầy đã gặp cha tôi. Sư thầy vui vẻ kể lại một vài kỷ niệm với cha tôi ngày ấy, còn chúng tôi thì thấy trong lòng vui sướng như được gặp lại người thân quen cũ, được trở lại quá khứ cùng cha mẹ đi lễ chùa. 
Lại hỏi sư thầy xin thầy cho biết một số ngôi chùa gần đây. Thầy cho biết có chùa Thiên Minh và Từ Hiếu.
Thế là chúng tôi đi tiếp. Cách đó không xa, sừng sững cổng tam quan chùa Thiên Minh. Cổng chùa, dọc bờ tường theo lối vào được khảm bằng sành sứ theo cách trang trí nghệ thuật cung đình Huế.

Chùa Thiên Minh - Huế, thành lập vào đầu thế kỷ 20

Chùa được xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Tọa lạc tại ấp Trường Giang, nay thuộc phường Trường An, Huế.
Chùa bắt đầu khởi sắc khi ngài Quảng Lộc được cử về làm trụ trì năm 1930. Ngài là đệ tử của ngài Giác Bổn, chùa Từ Quang, thuộc dòng thiền Lâm Tế đời thứ 43 và dòng thiền Liễu Quán đời thứ 9. Sau đó nhờ công đức của ngài Khế Chơn, vị kế thế trụ trì, chùa trở thành một ngôi chùa uy nghiêm.
Chùa Thiên Minh cũng mới được trùng tu. Như nhiều ngôi chùa Huế khác, trước chính điện chùa có một khu vườn cây kiểng đẹp và quanh chùa trồng nhiều cây ăn trái. Tại đây có một vị sư trẻ tiếp đón chúng tôi và nhiệt tình dẫn đường mời chúng tôi đi viếng Tượng đài Quan Thế Âm Bồ tát ở núi Tứ Tượng, thôn Bằng Lãng, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, cách chùa chừng hơn 10 km, nơi có tiếng linh thiêng và cách tuần rồi nghe đồn tượng Bồ tát tỏa ánh hào quang. 

Tượng đài Quán Thế Âm Bồ tát

Tượng đài Bồ tát nằm trên ngọn đồi, chung quanh quang cảnh núi rừng thật thơ mộng. Về phía Tây, ráng chiều sắc tím đỏ còn vương trên những rừng cây trùng trùng điệp điệp xa xa bao quanh càng tăng thêm vẻ đẹp thiên nhiên có phần huyền bí. 
Cũng trong buổi chiều đầu tiên đến Huế, từ tượng đài Quán Thế Âm Bồ tát, chúng tôi đi về lại thành phố và ghé chùa Từ Hiếu ở chặng cuối ngày.
Nghe danh tiếng chùa Từ Hiếu đã lâu, hôm nay tôi mới được đặt chân đến. Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế. Chùa tọa lạc ở thôn Dương Xuân Thượng III, xã Thủy Xuân, nằm khuất trong một rừng thông, khuôn viên rộng chừng 8 mẫu, trước có khe nước uốn quanh, khung cảnh thơ mộng. Ban đầu là am An Dưỡng do Hòa thượng Nhất Định dựng vào năm 1843 để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già. Vốn là một vị vua rất hiếu thảo với mẹ, Vua Tự Đức cảm phục tấm lòng của sư Nhất Định đã ban cho chùa tấm biển "Sắc tứ Từ Hiếu Tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Sau khi Hòa thượng viên tịch, vào năm 1848, các vị thái giám và cung giám đã tổ chức tái thiết, mở rộng ngôi chùa. Đây cũng là nơi trực tiếp hoặc gián tiếp tác thành các bậc tăng tài và thiền sư nổi tiếng từ xưa đến nay.

Chùa Từ Hiếu - Huế,

Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Từ cổng bước vào là một hồ bán nguyệt lớn xây vào năm 1930 trước thả hoa sen, hoa súng, nay còn nuôi thêm cá cảnh. Chung quanh là một khu vườn lớn trồng nhiều cây to tàng lá rậm rạp, thấp thoáng vài ngôi mộ cổ, miếu thờ. Vì đã chiều lại trong mùa an cư, khách đến viếng chùa giờ này không có ai ngoài chị em chúng tôi. Bước đi của người cũng khe khẽ trên lá khô như sợ làm động chốn thiền môn. Từng đàn cá quẫy đuôi ngoi lên lặn xuống khuấy động mặt hồ lẫn tiếng chim kêu đâu đó từ bìa rừng là tiếng động của thiên nhiên trong cảnh chùa yên tĩnh này.
Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là nhà Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu Đường, giữa thờ đức thánh quan, bên phải thờ các vị Thái giám dưới triều nhà Nguyễn từ đời Vua Tự Đức đến đời Vua Bảo Đại. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông. Nội viên chùa có mộ tháp của các sư trụ trì, khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn và lầu bia rất đẹp. Cách chùa chừng 300 m là khu lăng mộ các quan thái giám, bao quanh là tường cao phủ rêu phong tuế nguyệt. Nhìn tia nắng cuối ngày hiu hắt còn vương trên những ngôi mộ cổ hàng trăm năm đã nhuốm màu hoang phế, tôi chợt nghĩ về những linh hồn từng dâng hiến tuổi xuân xanh và cả cuộc đời cho hoàng triều một thưở, khi mất đi không con cái nối dõi tông đường thờ cúng, được nương mình nơi cửa Phật hưởng hương khói nhà chùa cũng ấm áp phần nào.
Tuy nhiên, tôi cũng nghe nói rằng triều Nguyễn có khoảng 200 thái giám nhưng chỉ có 25 ngôi mộ nằm tại nơi đây, còn lại không biết về đâu. Đây là ngôi chùa được xem như là ngôi chùa duy nhất đã đón nhận những con người bất hạnh cô đơn khi sống, không thừa tự khi chết này.
Chúng tôi rời chùa Từ Hiếu khi màn đêm dần buông. Có tiếng côn trùng nỉ non trong bóng chiều tà. Cảnh chùa càng thêm tịch liêu trầm mặc.
Ngày hôm sau là một ngày đi liên tục từ sáng đến chiều tối. Chúng tôi ghé chùa Đức Sơn vào đầu ngày. Đây là một ngôi chùa sư nữ ở xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, gần lăng Thiệu Trị, được thành lập năm 1964. Năm 1988 chùa mở cơ sở nuôi trẻ mồ côi lẫn trẻ em trong vùng. Cho đến năm 2002 chùa đã nhận nuôi hơn 120 trẻ em mồ côi. Tất cả nhờ vào kinh phí đóng góp của những tổ chức từ thiện, các nhà hảo tâm ở trong và ngoài nước. 

Chùa Đức Sơn - Cô nhi viện Đức Sơn
  
Tổng số hiện nay là 165 em: 81 nam 84 nữ. Trước đó chùa đã nuôi 300 em, hơn một nửa đã trưởng thành và có công ăn việc làm tử tế. Ni sư Thích nữ Minh Tú cho biết gần đây chùa có tổ chức quán cơm chay để có thêm thu nhập. Các em đã ra đi làm vẫn thường xuyên trở về phụ chăm sóc các em bé hơn. Nhìn các cháu bé dưới 1 tuổi ngồi buồn rầu trong các giường sắt thật đáng thương. Có cháu chừng 10 tháng đã cố đứng dậy níu song sắt đu ra ngoài đòi bế. Tôi cúi xuống bế cháu lên, cháu úp mặt vào lòng tôi ôm cứng không chịu rời. Lúc chia tay cháu khóc nức nở thật tội nghiệp. Đứa trẻ nào trong hoàn cảnh nào cũng cần cha mẹ và người thân yêu chiều nó. Tôi nghĩ, bất hạnh nhất trên đời của kiếp người là cha mẹ không còn khi sinh ra, hoặc bị bỏ rơi lúc chào đời không được hưởng sự ấm áp và tình yêu của lòng mẹ, sự chăm sóc dạy dỗ bảo ban của cha. Tôi hỏi Sư cô nếu có ai đó muốn nhận các cháu làm con nuôi thì như thế nào? Sư cho biết nhiều người muốn xin con nuôi nhưng hiện nay việc xin con nuôi rất khó vì phải xem xét rất kỹ sợ cho không đúng người. Các em lớn hơn thì không muốn cho ai, vì sống đùm bọc với nhau trong hoàn cảnh này, các em thương yêu nhau như ruột thịt không muốn chia lìa. 
Chùa còn có 1 phòng nuôi trẻ sơ sinh và 1 phòng cho các em bệnh tâm thần. Trong hành lang, có mấy cô gái trẻ người Pháp thường đến Cô nhi viện để săn sóc các em. Có cô gái tuổi chưa đến đôi mươi ngày nào cũng đến để bồng bế các em bé. Một cô gái cho biết trong 4 tuần đến Việt Nam du lịch thì cô đã bỏ ra 3 tuần để đến với các em vì các em rất cần tình thương. Thật là những tấm lòng vàng. 

Chùa Tịnh Đức - Nhà Dưỡng lão Tịnh Đức

Rời cô nhi viện Đức Sơn, chúng tôi đến chùa Tịnh Đức - Nhà Dưỡng Lão Tịnh Đức, Huế. Gần 24 năm nay, chùa Tịnh Đức ở phường Thủy Xuân- TP Huế là nơi nuôi dưỡng các cụ bà neo đơn bất hạnh, không nơi nương tựa. Vào đây, các cụ được chăm sóc sức khỏe và ăn uống đầy đủ. Đến khi các cụ nhắm mắt xuôi tay, nhà chùa lại tận tâm chôn cất và thờ cúng.
Khu vực chôn cất các cụ bà nằm ở một khu đất riêng cạnh chỗ an nghỉ của các ni sư đã quá vãng của chùa Tịnh Đức. Có gần 20 ngôi mộ, tất cả được xây cất và có bia đá khắc ghi tên tuổi, quê quán và ngày mất. 
Hiện chùa Tịnh Đức đang nuôi dưỡng 32 cụ bà, trong đó có 3 cụ trên 90 tuổi, 7 cụ bị tàn tật. Các cụ được ở trong những căn phòng sạch sẽ, mỗi phòng có 3 hoặc 4 cụ. Khi đến, có một cụ bà đang ngồi cầm chiếc chổi nhỏ quét hành lang ngay trước phòng mình. Cụ cắm cúi quét, không để ý đến ai. Trong phòng, các cụ ngồi nhìn ra, chắp tay chào. Sư cô cho biết: "Ban đầu nhà chùa đi tìm các cụ có hoàn cảnh neo đơn, không con cái nuôi dưỡng, đón về chăm sóc mà không cần giấy tờ. Nhưng về sau lại có nhiều trường hợp con cái hoàn cảnh khó khăn cũng muốn đưa mẹ vào đây, nhà chùa tôi buộc phải có hồ sơ lý lịch rõ ràng, vì không muốn vô tình làm cho các con của họ mang tội bất hiếu không nuôi dưỡng cha mẹ".
 
Chùa Diệu Viên - Nhà Dưỡng lão Diệu Viên


Một ngôi chùa sư nữ kế tiếp là chùa Diệu Viên - Nhà Dưỡng lão Diệu Viên ở xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, trên triền núi Ngũ Phong. Chùa do cư sĩ Hồ Thị Thể Anh, Nguyễn Thị Khương và một số Phật tử lập ra vào năm 1924 và mời sư bà Hướng Đạo làm vị khai sơn. Chùa được trùng tu nhiều lần và trở thành một cảnh trí trang nghiêm, thanh tịnh. Chùa có khoảng 40 ni sư và hiện đang nuôi dưỡng chăm sóc 23 cụ bà.
Khi đến đây cúng dường, chúng tôi may mắn được sư bà mời ở lại dùng cơm chay và dự lễ qua đường, hồi hướng cho mẹ chúng tôi. Đó là một phước báu rất lớn do nhân duyên mà được có. Chị em chúng tôi rất xúc động vì không ngờ và cũng không biết trước chuyện này. Cùng lúc đó, vị sư trẻ ở chùa Thiên Minh lại gọi điện thoại mời chúng tôi có tiện đường thì ghé qua chùa, quý thầy mời dự lễ qua đường ở đó nhưng chúng tôi cảm ơn vì đang trên đường đi tiếp đến nhà nuôi dạy trẻ mồ côi Ưu Đàm, theo hướng dẫn của một cô bạn.

Chùa Ưu Đàm - Nhà nuôi dạy trẻ Ưu Đàm

Chùa Ưu Đàm cũng là một nơi đến gây nhiều ấn tượng cho chúng tôi. Chùa ở xã Vinh Vệ, Phú Mỹ, Phú Vang, Thừa Thiên - Huế. Ni sư Phước Thiện, là P. Trưởng ban Điều hành. Trung tâm nuôi dạy hơn 40 cháu mồ côi đủ loại tuổi từ sơ sinh đến thiếu niên Vậy mà chỉ thấy có ni sư Phước Thiện, một ni sư khác cùng 2 cô nhà bếp chăm sóc. Khi chúng tôi đến vào giấc trưa, các em đang ngủ. Chúng tôi đi thăm một vòng, từ phòng ăn, bếp núc, phòng ngủ đến phòng vệ sinh đều sạch sẽ tươm tất thật đáng nể phục. Ni sư kể đã đi nhặt từng em bé lang thang ngoài đường về đây, tạo cho một gia đình có anh có em, dạy dỗ học tập. Có một số em từ nhỏ đã muốn đi theo con đường tu hành thì ni sư cho xuất gia, nhà chùa có phòng và bếp ăn chay riêng cho các cháu.
Vị trí chùa khá xa thành phố, nơi hẻo lánh ít người biết đến nên ni sư có vẻ ngạc nhiên hỏi sao chúng tôi biết đến nơi này. Tôi có hỏi hiện nay nhà nuôi trẻ cần thiết điều gì nhất thì ni sư nhỏ nhẹ trả lời: "Huế hay bị thiên tai. Vào mùa bão lụt, nước lụt dâng cao cả thước, chỉ lo cho các em thiếu thực phẩm". Nghe câu này lòng tôi nhói đau. Huế còn nghèo lắm, những con người có tấm lòng vàng như thế này đã làm gì để có thể đùm bọc nuôi dưỡng các em? Chúng tôi liền để lại thông tin liên lạc, mong lúc khó khăn nhất nhà chùa có thể cho biết. Nếu có thể làm được gì thì chúng tôi sẽ sẵn lòng.
Rời chùa Ưu Đàm, tiện đường chúng tôi ghé viếng lăng Vua Tự Đức rồi đi tiếp đến Huyền Không Sơn thượng. Đã một năm từ khi tôi đến thăm Huyền Không Sơn thượng và viết "Lạc Bước Rừng Thiền" (*), nay trở lại thấy có nhiều thay đổi. Con đường đi vào chùa Huyền Không đã được tráng nhựa, đỡ vất vả hơn cho việc đi lại, và cảnh chùa có vẻ nhộn nhịp hơn, đông du khách hơn trước. 

Huyền Không Sơn Thượng

Ngôi chùa cuối cùng trong ngày là chùa Thiên Mụ. Xe chúng tôi đi vòng ra ngã sau vì phía trước lúc nào cũng đông nghịt khách du lịch. Ngày còn bé, đây là ngôi chùa mà chị em tôi được đến nhiều nhất do cha mẹ và cả gia đình tôi đều được quy y với Cố Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Nay trở về được lễ Phật và vãn cảnh chùa, tôi lại nhớ đến những ngày tuổi nhỏ lúc gia đình tôi ngồi vây quanh Hòa Thượng trụ trì. Môi nở nụ cười hiền từ, người đưa tay xoa đầu chúng tôi. Mẹ bảo được Ôn xoa đầu thì học giỏi lắm!
Đó là một buổi chiều trời nắng đẹp, đã hơn 4 giờ chiều mà nắng còn rực rỡ chói chang. Đi dạo trong sân chùa thoang thoảng mùi hương kỷ niệm, tôi lại tưởng như nhìn thấy bóng hình cha mẹ mình đâu đây.
Khác với những cảnh chùa cổ u buồn đã đi qua, chùa Thiên Mụ nằm trên đồi Hà Khê, ở một vị trí rất đẹp và thơ mộng bên dòng Hương giang, xa xa là dãy núi Ngự Bình. Những cành phượng đỏ nghiêng soi bóng xuống dòng nước nơi có những chiếc thuyền trôi lờ lững.
Từ một huyền thoại có bà lão áo đỏ thường hiện ra trên đồi báo tin sẽ có chân chúa xuất hiện để tụ linh khí, làm bền long mạch cho nước Nam hùng mạnh, vào năm 1601 chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa đặt tên là Thiên Mụ cũng vì lẽ đó.

Chùa Thiên Mụ, Huế - Xây dựng vào năm 1601

Tháp Phước Duyên là một biểu tượng gắn liền với chùa Thiên Mụ, được xây dựng vào năm 1844 dưới đời Vua Thiệu Trị, cao 21 m và gồm 7 tầng, mỗi tầng đều có thờ tượng Phật.
Nói đến chùa Thiên Mụ, trong dân gian đã nối tiếng câu ca dao:
"Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"...
Câu ca dao trên vừa nói lên cảnh đẹp của đất thần kinh, vừa tả được tiếng chuông chùa Thiên Mụ vì đặc biệt khác thường. Chùa có 2 cái chuông, một chuông đúc vào năm 1710 và một vào năm 1815. Chiếc thứ hai được dùng để giữ nhịp thời gian, ngày đánh 2 lần, mỗi lần 108 tiếng đánh trong 60 phút để xóa tan 108 nỗi phiền muộn của thế gian. Giai thoại kể lại rằng Cố Hòa Thượng Thích Đôn Hậu là một thiền sư gắn liền với hạnh nguyện đánh chuông nhiều nhất, lúc sinh thời hằng ngày lúc 3:30 sáng ngài vẫn dậy sớm đánh chuông. Tiếng chuông do ngài đánh có âm thanh vang vọng thanh thoát vô cùng. Tiếng chuông rất thanh và vang xa, do được đúc bằng đồng theo kỹ thuật truyền thống hoàn hảo, chuông lại được đặt trên đồi, đặc biệt được chuyển tải bằng công phu thiền định và hạnh nguyện từ bi của các bậc chân tu nên càng mang âm sắc vi diệu khó tả.
Kể từ khi chúa Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, chùa Huế phát triển mạnh nhất từ đời Vua Gia Long đến đời Vua Duy Tân. Rất nhiều tượng Phật, chuông, khánh đồng, đá, và nhiều pháp bảo, văn vật khác của Phật giáo từ thời Vua Lê chúa Trịnh đến đời nhà Nguyễn còn được các chùa Huế bảo tồn, là một kho tàng của văn hóa Phật giáo Huế.
Sau nhiều đợt trùng tu, tái thiết, xây dựng mới, chùa Huế quy tụ hàng trăm ngôi chùa lớn nhỏ. Tôi không biết con số mà một chị bạn gốc Huế cho biết là Huế có tất cả 230 ngôi chùa có đúng không vào thời điểm hiện tại, hay người ta đã đếm tất cả kể cả những ngôi chùa cổ hoang phế và mất dấu rồi? Theo một thống kê, tổng số chùa khắp cả nước là 14.775 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích của Việt Nam. Chùa ở đây được kể đã bao gồm chùa Phật, chùa thờ thần, thờ các vị thiền sư như Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông, Lý Thần Tông; thờ Tam giáo ( Nho, Phật, Lão ), thờ Trúc Lâm tam tổ, chùa người Hoa, chùa người Kh'mer ở miền Tây Nam bộ v.v.... Ngoài những ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế mà chúng tôi đã đến được trong chuyến đi này như chùa Thiên Mụ, Báo Quốc, Từ Đàm, Từ Hiếu, Thiên Minh ... còn có nhiều ngôi chùa khác như chùa Diệu Đế, Phước Thọ Am, Trúc Lâm, Từ Ân ... cũng đều có lịch sử xây dựng từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 vẫn còn tồn tại. Đặc biệt có đến hàng trăm ngôi chùa vùng núi đồi mạn Nam sông Hương thuộc dòng sư Liễu Quán, Tổ của phái Thiền Lâm Tế Tử Dung - Liễu Quán mà tổ đình là Chùa Thuyền Tôn, được thành lập khoảng năm 1708 cũng từ một am mái lá ở núi Thiên Thai, nay thuộc Ngũ Tây, xã Thủy An. Riêng một số chùa cổ như Sùng Hóa, Kim Quang, Tây Thiền, Huệ Minh, Trấn Hải, Bạch Vân, Diên Thọ, Linh Hựu, Ngọc Sơn về sau đã bị bỏ phế, hoang tàn rồi mất luôn dấu tích xưa.
Tôi chưa có cơ hội đi thăm các chùa miền Bắc, nhưng tôi rất thích nét tạo hình tượng Phật và La hán của miền Bắc. Sống ở đất phương Nam, tôi từng có nhiều lần viếng các chùa Phật, chùa Ông, chùa Bà, đền thánh Trần, các ngôi đình thần v.v... từ miền Đông đến Tây Nam bộ, giờ đây được thăm thêm nhiều chùa Huế nên dễ dàng nhận ra những nét khác biệt. Nét quen thuộc trong kiến trúc chùa Huế với đặc điểm chung là không đồ sộ, có thể có vườn rộng nhưng nếp chùa Huế mang đặc trưng truyền thống ngôi chùa Việt Nam, tinh tế, không khoa trương rườm rà, bình dị, gần gũi với dân gian. Chính điện thường có từ 3 đến 5 gian, 2 chái, mái 2 tầng nhẹ nhàng, thanh thoát. Vườn chùa thường trồng cây ăn trái, cây cho hoa và cây kiểng được chăm sóc đẹp đẽ. Tháp mộ các vị Tổ, trụ trì, tăng chúng, được bố trí quanh vườn. Phía sau thường là khu canh tác, trồng hoa màu rau quả. Nội thất chùa bình dị, cân đối và không trang trí sặc sỡ. Trong chính điện trước Tam Thế Phật đặt thêm tượng Phật Thích Ca, gian trái thường có Bồ tát Địa Tạng, gian phải là Bồ tát Quán Thế Âm, tả hữu có Kim Cang, Hộ Pháp.
Cách kiến trúc chùa viện theo kiểu chữ Hán như chữ khẩu, chữ nhất, chữ tam, chữ liễu. Tiền đường, điện thờ theo kiểu nhà trùng lương đặc trưng của chùa Huế. Nóc chùa thường chạm khắc hình đôi rồng chầu mặt trăng hay chầu Pháp luân, hoặc hình ảnh tứ linh như long, lân, quy, phụng và các kiểu hoa sen. Mái lợp ngói âm dương như kiểu kiến trúc cung đình. Nhìn chung, đa số chùa Huế đẹp, mỹ thuật tinh tế, cảnh quan thơ mộng. Dù nằm ở vị trí đồi núi cao, rừng thông bạt ngàn, gần sông suối, đồng ruộng hay ngay cả trong thành phố cũng vẫn là những hình ảnh mà tôi từng nhìn thấy từ tuổi nhỏ, từng đem theo vào những giấc mơ về sau khi xa Huế nghìn dặm.

Thành phố Huế và dòng sông Hương nhìn từ khách sạn Imperial


Hai ngày ở Huế, chúng tôi ở trong một khách sạn nhìn xuống dòng sông Hương. Khung cảnh thật đẹp và mơ màng. Xa xa là núi Ngự Bình. Nhìn từ trên cao, dòng sông xanh ngắt uốn khúc quanh quanh thật mỹ miều. Tôi thầm nghĩ ngoài lý do phong thủy, phong cảnh Huế hữu tình như thế cho nên các chúa Nguyễn ngày xưa đã chọn nơi này làm kinh đô. Tôi nhận ra phía trái khách sạn là một trong những ngôi nhà cũ gia đình tôi đã ở từ những năm trước 1965. Đi về hướng ấy thêm chừng 100 m nữa là ngôi trường tiểu học của tôi. Hình bóng cha mẹ tôi dường như vẫn ở đâu đó quanh đây. Tôi có cảm giác như mẹ tôi đi cùng, và bà đã rất vui khi được cùng các con "về quê", một mong ước mà có lẽ bà đã chưa kịp thực hiện trước ngày đi xa.

Trên dòng Hương giang

Nếu kể cả một số ngôi chùa ở Đà Nẵng và Hội An cũng trong chuyến đi này như chùa Bảo Quang, chùa Bà Đa và đẹp nhất là chùa Linh Ứng - Bãi Bụt, Đà Nẵng với tượng Phật Quán Thế Âm cao 67 m trên ngọn đồi thuộc bán đảo Sơn Trà, thì trong chuyến hành hương ngắn ngày về quê mẹ lần này chị em chúng tôi đã viếng được hơn 15 ngôi chùa. Riêng những ngôi chùa Huế, còn nhiều cổ tự mà tôi chưa đến, cũng trong dịp này vô tình biết được, đã làm cho tôi mong muốn sẽ có những chuyến hành hương kế tiếp.

Tháng 8 - 2013
NGUYỄN DIỆU TÂM

Nguồn tham khảo lịch sử: Dư địa chí Thừa Thiên, Huế
Hình ảnh: Nguyễn Diệu Tâm
Xem thêm:
 https://picasaweb.google.com/110605700772018936184/NhungNgoiChuaHue
(*) http://ngdieutam.blogspot.com/2012/08/lac-buoc-rung-thien.html

Chùa Từ Hiếu mùa hoa mưng ( lộc vừng) - Nguồn: ww.lieuquanhue.vn